Kìa, Thiên Binh Cùng Nhau Trổi Hát
Luca
2:8-20
Phần giới
thiệu:
Phân đoạn
Kinh thánh Luca chương 2 là một phân đoạn rất quen thuộc. Ngay cả những người
chưa bao giờ mở quyển Kinh thánh ra cũng đã có cơ hội nghe phân đoạn ấy trong Lễ
Giáng Sinh đặc biệt của Charley Brown, ở đó Linus giải thích ý nghĩa thật của Lễ
Giáng Sinh bằng cách đọc mấy câu Kinh thánh đó.
Các bài ca
Giáng Sinh chúng ta đã hát hôm nay cũng rất quen thuộc với hầu hết mọi người. Hầu
hết chúng ta đều ca lên những bài hát ấy ít nhất mỗi năm một lần – thường là
vào tháng 12 vì một lý do nào đó … Thực vậy, có rất nhiều bài hát Giáng Sinh trở
nên quen thuộc đến nỗi chúng ta hát chúng mà thực sự chẳng cần nghe những gì
chúng ta hát. Vì vậy, trong mấy tuần lễ tới đây, tôi sẽ nhắm vào mặt thần học của
một số bài hát Giáng Sinh quen thuộc. Hôm nay, chúng ta sẽ nhìn vào bài KÌA! THIÊN BINH
CÙNG NHAU TRỔI HÁT.
Giai điệu của
bài ca cổ điển nầy đã được viết ra bởi Felix Mendelssohn vào năm 1840. Lời nhạc
thì do Charles Wesley viết. Charles cùng em mình là John Wesley là những nhà
tiên phong trong Hội thánh Methodist. Trong suốt quảng đời của ông, Charles
Wesley đã viết hơn 6.500 bài thánh ca. Phân đoạn Kinh thánh nầy, -- cùng với “Chúa Jêsus, Đấng
Yêu thương linh hồn tôi” – được xem là lời thánh ca hay nhất mà
Wesley đã viết.
Và thực vậy,
KÌA! THIÊN BINH
CÙNG NHAU TRỔI HÁT đôi khi được đặt tên là bài thánh ca được hát nhiều
nhất trong những nơi dùng Anh ngữ.
Bài thánh
ca của ông chiếu theo Kinh thánh từ Luca chương 2, ở đây các thiên sứ đã hiện
ra cùng mấy gã chăn chiên. Câu đầu tiên nhắm vào LỜI
CÔNG BỐ CHÚA GIÁNG SINH có một không hai nầy.
1. Khổ thứ nhứt nhắm vào LỜI CÔNG BỐ CHÚA GIÁNG SINH
1. Khổ thứ nhứt nhắm vào LỜI CÔNG BỐ CHÚA GIÁNG SINH
“Kìa, thiên binh cùng vang tiếng hát, chúc Thánh Đế mới sanh
trên đất! Bình an ân trạch ban khắp cả, Chúa và người đôi bên thuận hoà. Khắp đất
hát: Halêlugia! Suốt cả cõi trời cũng hoan ca. Các sứ thánh huyên ca giọng êm,
mừng Christ giáng tại Bếtlêhem. Khá chú ý khúc ca diệu thay: Vinh hiển bấy
Christ hạ sanh rày”.
Hãy cùng
xem xét với tôi, có hai hạng nhân vật được chỉ rõ trong khổ thứ nhứt nầy: Thiên
sứ và mấy gã chăn chiên.
THIÊN SỨ
Thật là
thích ứng cho sự ra đời quan trọng nhất nầy được loan báo bởi các Linh Siêu Nhiên. Tôi đã nhìn thấy nhiều mô tả về đạo
binh thiên sứ, nhưng tôi e chẳng biết có mô tả nào trong số đó là chính xác hay
không nữa. Chỉ có mấy gã chăn chiên mới có thể tô vẽ một bức hoạ chính xác … song
họ lại là những gã chăn chiên, chớ không phải hoạ sĩ.
Kinh thánh
có nhiều chỗ nói tới các thiên sứ. Thực vậy, các thiên sứ được nhắc tới 108 lần
trong Cựu Ước và 165 lần trong Tân Ước – Cách thức Kinh thánh phác hoạ thiên sứ
rất khác biệt so với những quan niệm thông thường nói tới các tạo vật giống cái
với khuôn mặt xinh xắn, các quầng hào quang, cùng đôi cánh mỏng mảnh kia.
Đây là phác
hoạ theo Kinh thánh về thiên sứ:
+ Họ là thể Linh, được dựng nên trước
cả nhân loại. Họ cao hơn hữu thể con người một chút với quyền phép cao hơn năng
lực của con người. Họ có thể hiện ra và biến mất trong giây lát.
+ Các hữu thể nầy phục vụ và thờ lạy
Đức Chúa Trời một cách tình nguyện. Chúng ta biết điều nầy vì một trong các
thiên sứ quyền lực và sáng láng nhất – là Lucifer – đã nổi loạn chống nghịch Đức
Chúa Trời và lãnh đạo một đoàn đông thiên sứ và chúng đã trở thành thứ mà chúng
ta gọi là Ma Quỉ.
+ Thiên sứ có thể hiện ra cùng hữu
thể con người bằng nhiều hình thức khác nhau.
> Êsai đã mô tả họ có sáu cánh và
đang bay.
> Ở một vài cơ hội, họ đã hiện ra
là những Linh thật sáng láng. Thực vậy, gần như là họ luôn luôn gây ra sự kinh
sợ, cho nên lời nói đầu tiên của họ đều là “đừng sợ…”
> Có khi họ hiện ra như hạng người
bình thường. Thực vậy, sách Hêbơrơ mô tả thiên sứ trông giống rất nhiều với con
người đến nỗi con người giao tiếp với họ mà chẳng nhận ra lai lịch siêu nhiên của
họ.
Các thiên sứ
thuờng được sai đi trong vai trò sứ giả của Đức Chúa Trời, và các tin tức họ
loan báo thường là tốt lành. Trong trường hợp nầy, thì còn hơn là tốt lành nữa.
Đây là những tin tức quan trọng nhất từng được rao báo. Chúng ta không biết có
bao nhiêu thiên sứ hiện diện trong ca đoàn đêm hôm ấy. Song Kinh thánh chép số
lượng các thiên sứ là: “vô
số thiên sứ; thiên sứ hàng muôn hàng ngàn” (Khải huyền 5:11).
Còn Luca chép đây là “muôn vàn thiên
binh với thiên sứ”.
Đối với mấy
gã chăn chiên, đấy quả là một bối cảnh đáng kinh ngạc. Nhưng các thiên sứ đã cảm
thấy như LỜI LOAN BÁO CHÚA RA ĐỜI nầy được loan
ra chưa đúng mức. Rốt lại, đây là biến cố quan trọng nhất trong mọi biến cố của
lịch sử con người. Như khổ thứ nhứt nói, Con Trẻ nầy đã đến để đem sự bình an
cùng ân trạch khắp đất. Sau cùng, cái điều khả thi, ấy là Đức Chúa Trời và tội
nhân phục hoà lại với nhau. Không có gì phải ngạc nhiên khi Wesley hô toáng lên:
“Khắp đất hát;…suốt cả cõi trời cũng hoan ca. Các sứ thánh
huyên ca giọng êm, mừng Christ giáng tại Bếtlêhem”.
Các thiên sứ
đã lấy làm kinh ngạc không biết lý do tại sao những Tin Tức Tốt Lành nầy không được
loan báo cho các dân của cả thế gian biết. Tại sao Đức Chúa Trời không đính kèm
lời loan báo với bối cảnh rộng khắp cả thế giới như sấm sét, mưa sao băng – có
thể nguyệt thực và một vụ nổ núi lửa thật hoành tráng … bất cứ điều chi khiến
cho cả thế gian phải chú ý đến!
Thay vì thế,
Đức Chúa Cha lại sai phái một Ca Đoàn ở trên trời đến loan báo SỰ RA ĐỜI của CON NGÀI
cho mấy gã chăn chiên tạp ở trong một cánh đồng mông quạnh. Chẳng có ai làm một
việc gì theo cách ấy cả! Sự thể giống như Hoàng Gia Anh Quốc phái các sứ giả đến
loan báo sự ra đời con trai đầu lòng của Thái Tử Charles cho một nhóm những gã
khuân vác ngoài bến cảng đang tải hàng hoá lên boong tàu … hay mời một vài gã
tài xế taxi ở Luân đôn đến chiêm ngưỡng con trẻ của hoàng gia.
MẤY GÃ
CHĂN CHIÊN
Vì vậy, mấy
gã chăn chiên nầy là ai mà lại đáng được một vinh dự như thế chứ? Đúng, họ là
những con người thuộc giai cấp lao động phổ thông đấy thôi. Và họ CHẲNG LÀM GÌ để đáng được vinh dự đó. Thực vậy, đấy
là toàn bộ quan điểm.
Chúa Jêsus đã
đến để cứu hạng người thông thường, lao động hàng ngày. Chúng ta có thể đồng
hoá với mấy gã chăn chiên vì họ sống giống như bạn và tôi. Không một ai trong
chúng ta xứng đáng với sự Bình An Trên Đất mà Chúa Jêsus đang hiến cho. Chúng
ta là hạng tội nhân chẳng xứng đáng được phục hoà lại với Đức Chúa Trời. Nhưng
chính với CHÚNG TA – những gã “Joe”
bình thường --- mà Những Tin Tức Tốt Lành nầy đã được loan ra.
Bài ca
Giáng Sinh nầy làm nhiều việc hơn là chỉ nói tới sự ra đời của Chúa Jêsus. Giống
như bất kỳ bài thánh ca nào của Charles Wesley, phân đoạn Kinh thánh nầy thực sự
là một course học cô đọng về Giáo Lý Kinh thánh theo thể thi ca.
Khổ thứ nhứt
loan báo sự ra đời của Chúa Jêsus. Câu thứ hai thuật lại về JÊSUS LÀ AI.
2. Khổ thứ
hai nhấn mạnh JÊSUS LÀ AI
“Kìa,
thiên binh thờ vua chánh ngôi, Cứu Chúa Christ vĩnh sanh vô đối! Đồng trinh xưa
hoài thai Thánh Tử, Đấng loài người bao
năm đợi chờ. Dẫu Chúa có hình thể như ta, vẫn chiếu sáng thần tánh như Cha. Kẻ
tiếp Chúa, Chúa luôn ngự bên, thật rõ Chúa Emmanuên. Khá chú ý khúc ca diệu
thay: Vinh hiển bất Christ hạ sanh rày”.
Charles
Wesley chủ ý gói ghém bốn lẽ thật quan trọng về lai lịch Chúa Jêsus vào trong một
câu ngắn ngủi nầy. Nếu chúng ta dừng lại để nhìn vào từng mệnh đề một, thì giống
như mình đang từ từ bước vào course học về lẽ đạo Đấng Christ vậy.
• THẦN TÁNH của Ngài: “Kìa,
thiên binh thờ vua chánh ngôi, Cứu Chúa Christ vĩnh sanh vô đối!”
Giăng 1:1 chép: “Ban
đầu có Ngôi Lời, Ngôi Lời ở cùng Đức Chúa Trời, và Ngôi Lời là Đức Chúa Trời”.
• SỰ RA ĐỜI BỞI NỮ ĐỒNG TRINH của Ngài -- Đồng trinh xưa hoài thai Thánh Tử, Đấng loài người bao năm đợi chờ”. Êsai 7:14 nói
trước: “Vậy nên, chính Chúa sẽ
ban một điềm cho các ngươi: nầy một gái đồng trinh sẽ chịu thai, sanh ra một
trai, và đặt tên là Em-ma-nu-ên”.
• SỰ HOÁ THÂN THÀNH NHỤC THỂ của Ngài – “Dẫu Chúa có hình thể như ta, vẫn chiếu sáng thần tánh như
Cha”. Ở Giăng 1:14, chúng ta đọc: “Ngôi
Lời đã trở nên xác thịt, ở giữa chúng ta, đầy ơn và lẽ thật; chúng ta đã ngắm
xem sự vinh hiển của Ngài, thật như vinh hiển của Con một đến từ nơi Cha”.
• NHÂN TÁNH của Ngài – “Kẻ tiếp Chúa, Chúa luôn ngự bên, thật rõ Chúa Emmanuên”. Hêbơrơ 4:15 cho chúng ta biết: “Vì chúng ta không có thầy tế lễ thượng phẩm chẳng có thể cảm thương sự yếu đuối chúng ta, bèn có một thầy tế lễ bị thử thách trong mọi việc cũng như chúng ta, song chẳng phạm tội”.
• NHÂN TÁNH của Ngài – “Kẻ tiếp Chúa, Chúa luôn ngự bên, thật rõ Chúa Emmanuên”. Hêbơrơ 4:15 cho chúng ta biết: “Vì chúng ta không có thầy tế lễ thượng phẩm chẳng có thể cảm thương sự yếu đuối chúng ta, bèn có một thầy tế lễ bị thử thách trong mọi việc cũng như chúng ta, song chẳng phạm tội”.
Charles
Wesley thực sự gói ghém toàn bộ vào một vài dòng mà chúng ta vừa hát; chỉ cho
chúng ta thấy mọi sự Chúa Jêsus vừa là Trời mà cũng vừa là Người rất là trọn vẹn.
Hãy lắng
nghe mọi điều mà một tác giả Thánh Ca người Anh có tên là Eric Routley đã viết
về thánh ca của Wesley: “Những bài thánh ca nầy đã đuợc sáng tác để những người nam
người nữ có thể hát theo cách của họ, không những ở kinh nghiệm, mà còn ở sự hiểu
biết nữa; -- kẻ có học sẽ dầm thấm văn hoá của họ, còn kẻ dốt nát sẽ được dẫn
vào trong lẽ thật bởi bàn tay dịu dàng của cung điệu và giai điệu”.
Khổ sau
cùng cung ứng một nền thần học nói tới mọi điều mà Chúa Jêsus đã đến để làm cho
chúng ta. Bộ môn nầy được gọi là Thần Học Về Chúa Jêsus Đấng Cứu Thế, nghiên cứu
về sự cứu rỗi.
3. Khổ thứ
ba dạy MỌI ĐIỀU CHÚA JÊSUS HIẾN CHO
“Tụng ca Vua Bình An đến kia, hát chúc ánh thái dương công nghĩa. Ngài đem theo Thần Quang vĩnh sanh, phép trị bịnh do tay nhơn lành. Chúa gác bỏ quyền quí thiên cung, xuống để cứu người thoát nguy vong. Xuống để vớt ai đương lầm than, được trùng sanh, phục hồi vinh quang. Khá chú ý khúc ca diệu thay, vinh hiển bấy Christ hạ sanh rày”.
“Tụng ca Vua Bình An đến kia, hát chúc ánh thái dương công nghĩa. Ngài đem theo Thần Quang vĩnh sanh, phép trị bịnh do tay nhơn lành. Chúa gác bỏ quyền quí thiên cung, xuống để cứu người thoát nguy vong. Xuống để vớt ai đương lầm than, được trùng sanh, phục hồi vinh quang. Khá chú ý khúc ca diệu thay, vinh hiển bấy Christ hạ sanh rày”.
• Chúa Jêsus đem theo SỰ SÁNG
và SỰ SỐNG: “Ngài đem
theo Thần Quang vĩnh sanh…”. Giăng
1:4 chép về Chúa Jêsus: “Trong
Ngài có sự sống, sự sống là sự sáng của loài người”. Có người tin rằng người nào đi
theo Chúa Jêsus sẽ bị đàn áp, bị chèn ép, và khốn khổ. Không một điều gì có thể
xa rời đối với sự thật. Sự sống thật được tìm thấy chỉ ở nơi Ngài. Và Chúa
Jêsus rải ánh sáng ra trên những vấn đề quan trọng nhất của cuộc sống. Lời của
Ngài thực sự là thứ ánh sáng dẫn chúng ta vào trong một cuộc sống đầy dẫy.
• > Chúa Jêsus đem lại SỰ CHỮA LÀNH: “phép trị
bịnh do tay nhơn lành”. I Phierơ 2:23 giải thích: “Ngài gánh tội lỗi chúng ta trong thân thể
Ngài trên cây gỗ, hầu cho chúng ta là kẻ đã chết về tội lỗi, được sống cho sự
công bình; lại nhân những lằn đòn của Ngài mà anh em đã được lành bịnh”.
• > Chúa Jêsus đem lại SỰ THẮNG HƠN SỰ CHẾT: “Chúa gác bỏ quyền quí thiên cung, xuống để cứu người thoát
nguy vong. Xuống để vớt ai đương lầm than, được trùng sanh, phục hồi vinh quang”.
I Côrinhtô
15:54-57: “Khi
nào thể hay hư nát nầy mặc lấy sự không hay hư nát, thể hay chết nầy mặc lấy sự
không hay chết, thì được ứng nghiệm lời Kinh Thánh rằng: Sự chết đã bị nuốt mất
trong sự thắng. Hỡi sự chết, sự thắng của mầy ở đâu? Hỡi sự chết, cái nọc của mầy
ở đâu? Cái nọc sự chết là tội lỗi, sức mạnh tội lỗi là luật pháp. Nhưng, tạ ơn Đức
Chúa Trời đã cho chúng ta sự thắng, nhờ Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta”.
Susan và
tôi đã kinh nghiệm chỗ khác biệt mà SỰ THẮNG HƠN SỰ CHẾT
nầy thực hiện cho một gia đình trong tuần nầy khi chúng tôi nhóm lại với gia đình
của cô ấy bên mộ địa của anh cô ấy là Jamey. Sự chết thật là bi thảm. Thế nhưng
gia đình không buồn rầu với thất vọng và vô vọng đâu. Đã có sự vui mừng trong sự
hiểu biết rằng Đức Chúa Jêsus Christ đã thắng hơn sự chết, và một đời sống tốt
hơn đang chờ đợi hết thảy chúng ta, những ai chịu tin theo Ngài.
Khi Chúa
Jêsus bước vào thế gian, mọi sự đà thay đổi. SỰ SỐNG
và SỰ SÁNG đã đến với một thế giới tăm tối. SỰ CHẾT đã bị nuốt mất trong sự thắng.
Một người
có tên là Ralph Stockman trình bày theo cách nầy: “Cái bản lề của lịch sử đang ở trên cánh cửa
của chuồng chiên Bếtlêhem”.
Phần kết
luận:
Trong phần
kết luận, tôi muốn nhìn vào hai từ xưa cũ mà chúng ta nhìn thấy trong bài ca
Giáng Sinh nầy. Chúng ta không nên kinh ngạc khi thấy có một số cách nói xa xưa
trong bài thánh ca nầy. Rốt lại, Charles Wesley đã sống vào thập niên 1800. Từ
ngữ ông sử dụng dường như chẳng có gì lạ lùng cho các ca sĩ vào thời ấy. Nhưng
mặc dầu chúng ta không sử dụng các từ ngữ nầy trong cách ăn nói hàng ngày, ý
nghĩa của chúng rất gắn bó với đời sống của chúng ta.
Hãy nhìn
vào từ ngữ thứ nhứt trong bài ca nầy. Nó nhảy đại vào bạn: “Kìa!”
Chữ nầy ý nói HÃY CHÚ Ý ĐÂY, hay HÃY LẮNG NGHE ĐÂY! “Kìa!”
là một từ ngữ bạn hô lên để bắt lấy sự chú ý của mọi người. Bài ca có thể khởi
sự với cụm từ: NÈ, BẠN ƠI! Nhưng nói như thế
thì chẳng có gì là thi ca cả. Chúa Jêsus thường phán: “Ai có
tai để nghe, hãy nghe”. Chẳng có ích lợi gì cho Đức Chúa Trời
khi phán dạy nếu chúng ta không chịu nghe.
Sứ điệp nói
tới sự cứu rỗi đã được loan ra: Chúa Jêsus đã đến. Ơn cứu rỗi thuộc về bạn nếu
bạn muốn có nó. Và việc đầu tiên chúng ta cần phải làm được mô tả bằng một từ đó:
“Kìa!” Có phải bạn đang nghe theo tiếng phán
của Đức Thánh Linh hôm nay chăng?
Từ ngữ thứ
hai là “tụng ca”. Từ ngữ ấy có ý nói
tung hô, chào đón, công nhận. Bài ca chép: “Tụng ca Vua Bình
An đến kia, hát chúc ánh thái dương công nghĩa”.
Tụng ca là
dâng lên sự thờ phượng thích đáng với Đấng đem lại cho chúng ta sự sáng, sự sống,
sự chữa lành, và ơn cứu rỗi đời đời.
Hôm nay, bạn
có chịu nghe Lời lẽ của Ngài và tụng ca Ngài là Vua và Cứu Chúa CỦA BẠN
không?
“Kìa, thiên binh cùng vang tiếng hát, chúc Thánh Đế mới sanh
trên đất!”

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét