"Phước Cho Nhân Loại"
Giảng
ngày 24 tháng 12 năm 2009 Mục sư John Schmidt.
Phân đoạn Kinh thánh: Thi thiên 98; Êsai 49:5-7; Philíp 2:6-11
Phân đoạn Kinh thánh: Thi thiên 98; Êsai 49:5-7; Philíp 2:6-11
Chúng ta hãy cầu nguyện: Lạy Chúa,
chúng con cảm tạ Ngài vì cơ hội nầy, khi chúng con để ra vài phút suy gẫm về
Ngài, suy nghĩ về Lời của Ngài. Chúng con nài xin Ngài mở mắt, mở lòng chúng
con ra. Xin giúp chúng con đáp ứng lại với ân điển mà Ngài ban bố cho chúng
con. Chúng con cầu xin điều đó trong danh của Chúa Jêsus, Amen.
Tôi sẽ trình bày rõ ràng với quí vị. Đây là Đêm Giáng
Sinh. Nói như thế có nghĩa là ngày mai mới là ngày Chúa Giáng Sinh. Và tôi muốn
giúp cho quí vị hình dung sáng ngày mai sẽ là buổi sáng như thế nào đấy thôi. Tôi
nghĩ chúng ta sẽ bị đánh thức vào lúc 5 giờ 30 sáng. Đấy là thời điểm tốt lành.
Có phải không? Vì đây là một ngày thực sự rất thú vị. Vì thế chúng ta phải dậy
cho thật sớm. Chúng ta khoác lên người những chiếc váy thật ấm áp. Chúng ta đi
xuống phòng nào có đặt cây Giáng Sinh.
Chúng ta quây quần ở đó, rồi chúng ta khởi sự ngồi thành
vòng tròn, và bố mẹ chạy vào trong bếp trong vài phút để pha càphê, vì đấy là
việc quan trọng khác mà quí vị cần phải có. Và quí vị quây quần quanh cây Giáng
sinh, ai nấy đến ngồi tại đó và bắt đầu nói tới các món quà tuyệt vời mà người
ta trao cho nhau cách đây cả ngàn năm, vì chẳng có một gói quà nào đặt dưới cây
Giáng sinh hết.
Giờ đây, khi tôi chia sẻ tại buổi nhóm gia đình lễ bái
cách đây mấy tiếng đồng hồ, ngay cả mấy đứa trẻ nhỏ ở đó cũng nhìn biết có một
việc gì đó sai lầm rất nghiêm trọng với câu chuyện nầy vì mọi người đều biết đấy
là Lễ Giáng Sinh. Rồi trong Lễ Giáng Sinh, quí vị cần phải đặt nhiều món quà ở
dưới cây Giáng Sinh. Toàn bộ ý tưởng về việc quây quần quanh cây Giáng Sinh rồi
chia sẻ một loại câu chuyện nào đó về người nầy người kia nhận được các món quà,
có thể đấy là ngày lễ khác dành cho nhóm người khác, song đấy chẳng phải là Lễ
Giáng Sinh.
Tuy nhiên, có lúc tôi cảm thấy khi chúng ta vịn lấy lý do
thuộc linh ở đàng sau Lễ Giáng Sinh, khi chúng ta khởi sự suy nghĩ về Chúa
Jêsus, có khi chúng ta rơi vào loại thái độ như những gì chúng ta đang kỷ niệm ở
đây là một món quà đã được trao cách đây mấy ngàn năm. Và nó chẳng có thực tế
gì bao nhiêu trong giờ nầy đối với chúng ta. Chắc chắn đây là một câu chuyện lớn
lao. Chúng ta muốn ghi nhớ câu chuyện ấy, và chúng ta muốn thuật lại câu chuyện
đó. Câu chuyện của Đức Chúa Trời đến với trần gian trong Chúa Jêsus và mọi điều
kỳ diệu của tình yêu ấy đang chỉ thẳng về phía Đức Chúa Trời. Nhưng phải thành
thật về câu chuyện đó, thường thì đấy là chỗ câu chuyện ấy kết thúc đối với
chúng ta. Đây là một câu chuyện hay. Một câu chuyện đáng nhớ. Chúng ta không
trông mong một món quà làm thay đổi, làm thay đổi đời sống đến từ Đức Chúa Trời
trong lúc nầy. Chẳng có món quà nào đặt dưới cây Giáng Sinh hết.
Vào cuối buổi thờ phượng hôm nay, chúng ta sẽ hát lên một
trong những bài hát Giáng Sinh nổi tiếng nhất từng có. Silent Night [Đêm yên lặng] là một bài trong số đó, nhưng bài hát chúng ta sẽ hát sau đây là bài Joy to the World [Phước
Cho Nhân Loại]. Joy to the
World [Phước Cho Nhân Loại] do Isaac
Watts viết ra cách đây 300 năm. Isaac Watts đã sáng tác thơ
văn trọn cả đời sống ông. Ngay khi còn là một đứa trẻ, ông đã có ân tứ trong việc
ghi ra những vần thơ.
Khi câu chuyện mở ra, cha của ông thường bắt gặp ông với đôi
mắt mở ra trong suốt buổi gia đình lễ bái, khi gia đình nhóm lại cùng nhau đặng
cầu nguyện (tôi nghĩ đây là một ý hay).
Họ đang cầu nguyện, và người cha chú ý thấy Isaac đang ngước mắt nhìn lên trần
nhà. Khi cha ông rầy rà vì ông không chú ý, Isaac giải thích rằng ông đang quan
sát một con chuột chạy trên sợi dây thừng ở trong nhà. Nhưng ông không nói theo
cách ấy. Thay vì thế, ông nói như vầy: "Một
con chuột nhỏ, vì không có cầu thang, leo lên một sợi dây, thốt ra lời cầu nguyện
của nó".
Cha ông thực sự không nghĩ rằng đấy là một đáp ứng thích
hợp, và thế là cha ông bắt đầu sửa phạt ông. Về mặt tự nhiên, Isaac không biết
lúc nào phải nín miệng, rồi ông kêu la: "Cha ơi,
xin thương xót con, thì con sẽ chẳng làm thơ nữa". Tôi rất vui vì thơ của
ông trở hay hơn khi ông lớn lên. Isaac Watts giờ đây được xem là một trong các
tác giả thánh ca hay nhất từng có trong Anh ngữ, nhưng ông không luôn được đánh
giá cao trong chính thời của ông.
Quí vị thấy đấy, y như là cha ông đã có nhiều bối rối với
thơ văn của ông, người ta trong thời của Isaac Watts cũng đã có bối rối với thơ
văn của ông nữa, vì những bài ca thánh khác biệt với những bài mà chúng ta đang
ca hát hiện nay. Những người đồng thời với ông đã xem giai điệu của ông quá trần
tục. Người ta trong kỷ nguyên ấy nghĩ rằng chúng ta nên ca hát các Thi thiên, tiểu
đoạn nào trong Kinh thánh có thơ văn và các bài ca được gọi là Thi thiên. Và họ
đã cảm nhận như Watts đã có quá nhiều sự tự do.
Ông cũng rất là thần học. Ông đặt nhiều riêng tư với thông tin ở đó. Và thế là
các bài ca thánh của ông làm xúc phạm nhiều người đến nỗi một số hội chúng đã
chia ra, và một số Mục sư đã nổi nóng trong việc sử dụng các bài thánh ca của
ông.
Ở giữa mọi sự ấy vẫn có cuộc tranh cãi, Watts
vốn biết rõ Đức Chúa Trời đã ban cho ông ân tứ nầy từ thuở nhỏ. Và vì thế ông đã
giữ luôn như thế trọn cuộc đời của ông. Một trong những bài thánh ca hay nhất của
ông là bài
Joy to the World [Phước Cho Nhân Loại]. Chúng ta hát bài ấy với
sự thích thú trong từng dịp Lễ Giáng Sinh, và chúng ta hát bài ấy với một số
ngôn ngữ khác nhau trên khắp thế giới. Mặc dù vậy, việc buồn cười, ấy là ông
không viết bài nầy như bài thánh ca Giáng Sinh đâu. Ông chẳng có dự định bài ca
nầy sẽ được hát lên đặc biệt cho Lễ Giáng Sinh, vì việc ông thực sự đang làm là
viết ra một bài thánh ca chiếu theo Thi thiên 98. Thi thiên 98 không nhắc tới sự
ra đời của Chúa Jêsus gì hết.
Tôi muốn trở lại với Thi thiên 98 trong một phút để quí vị có thể nhận ra Thi thiên ấy muốn nói điều
gì. Thi thiên 98. Quí vị sẽ thấy Thi thiên ấy ở trang 564 của quyển Kinh thánh
mà quí vị tìm gặp tại hàng ghế trước chỗ ngồi của quí vị đó.
"Hãy hát cho Đức Giê-hô-va một bài ca mới; Vì Ngài đã
làm những sự lạ lùng: Tay hữu và cánh tay thánh của Ngài đã giải cứu Ngài. Đức
Giê-hô-va đã tỏ cho biết sự cứu rỗi Ngài, và lộ ra sự công bình Ngài trước mặt
các nước. Ngài đã nhớ lại sự nhân từ và sự thành tín
của Ngài đối cùng nhà Y-sơ-ra-ên; Các đầu đất đã thấy sự cứu rỗi của Đức Chúa
Trời".
"Hỡi cả trái đất, hãy cất tiếng reo mừng
cho Đức Giê-hô-va, nức tiếng vui vẻ và hát ngợi khen! Khá
dùng đàn cầm và giọng ca mà hát ngợi khen Đức Giê-hô-va, hãy
lấy còi và tiếng kèn mà reo mừng trước mặt Vua, tức là Đức Giê-hô-va. Nguyện
biển và muôn vật ở trong biển, thế gian cùng những người ở trong thế gian đều nổi
tiếng ồn ào lên! Nguyện các sông vỗ tay, núi non cùng nhau hát vui mừng trước mặt
Đức Giê-hô-va! Vì Ngài đến đặng đoán xét thế gian: Ngài sẽ
lấy sự công bình mà đoán xét thế gian, dùng sự ngay thẳng mà đoán xét muôn dân".
Thi thiên nầy hoàn toàn đưa ra lời ngợi khen. Thi thiên ấy
chỉ toàn là ngợi khen. Ba câu đầu tiên, tác giả Thi thiên kêu gọi chúng ta hãy
hát với sự ngợi khen. Lẽ đạo trong mấy câu mở đầu là sự đắc thắng vang dội của Đức
Chúa Trời. Ngài đang nói tới sự tận cùng của lịch sử ở đây, và cụm từ "sự cứu rỗi" xuất hiện ba lần trong các câu mở đầu. Sự cứu rỗi
của Đức Chúa Trời mới phát ra và bùng nổ khắp thế giới. Ơn ấy đến với mọi người.
Các nước, các đầu cùng đất, nhìn thấy ơn cứu rỗi của Đức Chúa Trời. Và đây là
những tin tức tốt lành, và ông đang kêu gọi mọi người hãy ngợi khen Đức Chúa Trời
vì cớ ơn nầy.
Các câu 4 đến 6 tiếp tục sự kêu gọi đó. Hãy cất tiếng reo
mừng; nức tiếng vui vẻ tưng bừng trong bài ca. Một lần nữa, ông kêu gọi chúng
ta hãy vui mừng. Những tiếng kèn, đàn cầm, mọi sự chúng ta có thể làm trong vai
trò con người là hãy dâng lên lời ngợi khen trước mặt Đức Chúa Trời. Sự ngợi
khen ấy rất xứng đáng vì cớ mọi điều Đức Chúa Trời đang làm. Kế đó, trong các
câu 7 đến 9, mọi loài thọ tạo được truyền cho phải kết hiệp với chúng ta. Con
người, đại dương, các tạo vật từng loại một, ngay cả núi non đều được kêu gọi
hãy ngợi khen Đức Chúa Trời vì những gì Ngài sắp làm ra. Và đến phần cuối của
Thi thiên ấy, chúng ta có được ý niệm lý do tại sao chúng ta được kêu gọi hãy
ngợi khen. Vì Đức Chúa Trời ngự đến đặng xét đoán thế gian.
Khi tất cả lịch sử của con người đã qua, khi Nước Đức
Chúa Trời ngự đến trong sự đầy dẫy của Nước ấy cho mọi dân trên đất, Thi thiên ấy
ở đây nói rằng sẽ có sự ngay thẳng và công bình. Mọi sự chi là bất công sẽ được
làm cho bằng ở phần cuối của lịch sử. Và "đoán xét" ở đây không có nghĩa là...
Chúng ta luôn luôn nghĩ tới cụm từ "đoán xét" là sửa phạt điều ác, song
phần ý nghĩa khác của cụm từ "đoán xét" nầy là cai trị. Và thế
là cái điều Thi thiên nầy muốn nói, ấy là trong ngày sau cùng nầy, sẽ chẳng có
một bức màn giữa Đức Chúa Trời và loài thọ tạo, và mọi loại thế lực của con người
và thế lực thuộc linh làm sự phân cách đối với Đức Chúa Trời, song chính mình Đức
Chúa Trời sẽ cai trị với sự công bình.
Như vậy, sự kêu gọi ở đây, sứ điệp, đây là những tin tức
tốt lành. Kẻ đau yếu, người bị thương, kẻ đau khổ, người nghèo, hệ sinh thái của
thế giới bản thân nó được kêu gọi hãy ngợi khen Đức Chúa Trời và nhận lãnh những
tin tức tốt lành khi Đức Chúa Trời ngự đến với mọi sự đầy dẫy của Ngài ở phần cuối của lịch sử, Ngài sẽ sửa ngay lại
toàn bộ thế giới, và Ngài sẽ sửa ngay lại toàn bộ thế giới vì ích cho họ. Nhưng
tin tức khó tin thay! Và vì thế, tác giả Thi thiên bảo chúng ta: "Hãy vui vẻ! Hãy ngợi
khen! Hãy vỗ tay! Hãy cất tiếng lớn lên! Các ngươi đang có những tin tức tốt
lành". Một sứ điệp trong Cựu Ước.
Joy to the World [Phước Cho Nhân Loại] mang lấy lẽ đạo nầy.
"Phước cho nhân loại! Chúa ta ra đời!
Trần gian nghinh Vua vô đối
Kíp mở cửa lòng tiếp rước Con Trời
Bầu trời vạn vật hoà thinh. Bầu trời vạn vật hoà thinh.
Trời đất xướng ca kính khen Vua mình.
Phước cho nhân loại! Chúa nay cai trị
Muôn dân âu ca hoan hỉ
Hải đảo, sơn hà trổi bản ca thi
Đồng hoà vận điệu mừng vui. Đồng hoà vận điệu mừng vui.
Hoà khúc thánh ca hỉ hân muôn đời
Chúa đến tiêu diệt! Ác khiên, bịnh tật.
Tật lê không sanh trên đất.
Chúa đến đem lại suối phước chân thật
Tràn ngập mọi vùng hoạ ương. Tràn ngập mọi vùng hoạ ương.
Nguyền rủa biến ra phước âm thiên thượng
Lẽ chánh, ơn lành, Chúa đem cai trị
Làm cho muôn dân khai trí
Thấy rõ vinh quang chính nghĩa trị vì
Lòng đại từ Ngài lạ thay! Lòng đại từ Ngài lạ thay!
Từ ái Chúa ta, cổ kim ai tày".
Một phản ảnh đáng kinh ngạc về sự vui mừng và phạm vi của
bài Thi thiên nguyên thủy. Nhưng thắc mắc là ... tại sao chúng ta hát bài ấy
trong dịp Lễ Giáng Sinh? Tại sao bài hát nầy trở thành một trong những phương
thức chính chúng ta tỏ ra sứ điệp nói tới Lễ Giáng Sinh? Một trong những lý do
nằm ở phần mở đầu của bài thánh ca nầy. Phần ấy chép: "Phước cho nhân loại,
Chúa ta ra đời! Trần gian nghinh Vua vô đối". Vì vậy, có bức tranh ấy
ở đó quí vị có thể hình dung được là Chúa đang ngự đến như một Con Trẻ, và
chúng ta sẽ được mời đến tiếp nhận Chúa Jêsus là Vua. Và tôi nghĩ điều đó hoàn
toàn là hợp pháp.
Nhưng phần tương lai cũng cũng nằm trong đích nhắm ở đây
vì lời bài hát ở đây chỉ ra sự thực Đức Chúa Trời có một sự khải thị hoàn toàn
về loài thọ tạo. Những gì Chúa Jêsus ngự đến lo làm trong vai trò một con trẻ
trong việc trở thành một con người, sống đời sống con người rồi gục chết để đổi
lấy chúng ta và trở lại với sự sống trong sự phục sinh, mọi sự nầy là phần bắt đầu
của một chương trình mà Đức Chúa Trời phải đưa đến chỗ trọn vẹn. Và chúng ta đang
sinh sống giữa phần khởi sự và phần cuối cùng. Chúng ta nhận lãnh các ơn phước
của chương trình đó, nhưng tuy nhiên chúng ta chưa nhận lãnh hết ơn ấy.
Đó là những tin tức tốt lành không những trong quá khứ. Đó
là những tin tức tốt lành trong lúc bây giờ vì chúng ta đang sống ở trong kỷ
nguyên ân điển. Và đó là những tin tức tốt lành trong tương lai vì lời hứa của Đức
Chúa Trời cho thấy rằng đến lúc cuối cùng là tốt hơn cho mọi người nào nhìn biết
Ngài. Joy to the World [Phước
Cho Nhân Loại] là một sự nhắc nhớ
cho sự nhận biết đó. Đây là một sự nhắc nhớ rằng chúng ta hãy còn chờ đợi cái
ngày Chúa Jêsus trở lại rồi cai trị trong sự bình an và công bình trọn vẹn.
Và cũng một thể ấy trong dịp Lễ Giáng Sinh, không những
chúng ta nhìn lại trong lịch sử một hành động yêu thương đáng kính ngạc đó. Chúng
ta không những nhớ lại mọi việc. Trong dịp Lễ Giáng Sinh, chúng ta nhìn tới trước
đến sự chung cuộc của mọi sự mà Đức Chúa Trời sẽ làm, đến mục tiêu của những gì
Ngài sẽ làm, khi Đấng Cứu Thế và là Nhà Vua ngự đến rồi tể trị thế gian, và
chúng ta công nhận rằng ngay bây giờ, có một món quà đặt dưới cây giáng sinh. Không
những chúng ta nói tới món quà đã được trao cho. Có một món quà phải nhận lãnh
ngay lúc bây giờ đây.
Cho tới ngày ấy, bài thánh ca nhắc cho chúng ta nhớ: "Kíp mở cửa lòng tiếp
rước con trời". Hãy dọn lòng ngay giờ nầy để cho Nhà Vua vận hành trong
chúng ta. Chính tình yêu đã sai phái Chúa Jêsus đến, chính tình yêu ấy sẽ phục
hồi thế gian lại đến chỗ đẹp đẽ và bình đẳng trọn vẹn, tình yêu ấy sẽ sửa chữa
một thế giới bị hư hỏng... tình yêu ấy được trao cho chúng ta hôm nay.
Và nếu như quí vị chưa từng nhận lãnh tình yêu ấy, tôi chỉ
muốn mời quí vị chúng ta hiện còn sống trong lúc bây giờ đây. Đã lâu lắm rồi, 2.000
năm. Chúng ta không biết câu chuyện ấy xảy ra bao lâu cho đến lúc bây giờ, nhưng
chúng ta đang sống trong thời kỳ ân điển, sự ưu ái ở chỗ chúng ta có thể thực sự
nhận lãnh một món quà sẽ không trọn vẹn cho tới kỳ tương lai, trừ ra một món
quà lúc bây giờ ở chỗ Đức Chúa Trời ngự đến để chữa lành tình trạng tan vỡ của
chúng ta.
Bài thánh ca bày tỏ sự chữa lành ấy theo cách khác. "Chúa đến tiêu diệt!
Ác khiên, bịnh tật. Tật lê không sanh trên đất. Chúa đến đem lại suối phước
chân thật. Tràn ngập mọi vùng hoạ ương. Nguyền rủa biến ra phước âm thiên thượng”. Sự nguyền rủa đã có từ ngàn xưa. Dù đấy là sự rủa sã trong những
góc tối của chính đời sống chúng ta, Chúa đã ngự đến để đem ân điển vào ngay
các góc tối xa xăm nhất của nhân cách chúng ta. Có những tin tức tốt lành. Và Đức
Chúa Trời đang đem những tin tức tốt lành đến những góc xa nhất của thế gian. Nhiều
nơi đầy dẫy với đau khổ và buồn rầu, ơn cứu rỗi của Đức Chúa Trời sẽ san bằng một
cách hoàn toàn.
Vì vậy, những gì Đức Chúa Trời đã làm trong Đấng Christ không
những là một việc phải ghi nhớ. Chúa Jêsus đã khởi sự một việc rất thực trong
lúc bây giờ đây. Chúng ta nhìn vào quá khứ, rồi chúng ta nhìn vào tương lai để
chúng ta có sự trông cậy trong hiện tại. Vì vậy, đây là những tin tức tốt lành.
Đây là những tin tức tốt lành không phải vì người nào có ơn ấy rồi đâu, mà cho
những ai giống như chúng ta, người nào cảm thấy sự rủa sã, người nào cảm thấy
thiếu mất, người nào cảm thấy buồn bực trong đời sống của họ khi họ đang sống
trong lúc bây giờ đây.
Tôi có thể nhớ cách đây 38 năm hoặc ngay trước khi Lễ
Giáng Sinh nầy trở thành một thực tại đối với tôi. Và tôi nhận ra rằng đây
không phải là một câu chuyện cổ tích hay câu chuyện đời xưa nói tới việc gì đó đã
xảy ra từ lâu, kỷ niệm một loại quà cáp được trao cho trong quá khứ mà chúng ta
nên thưởng thức, mà là có một thực tại ngay lúc bây giờ Đức Chúa Trời có thể
trao cho tôi về mặt thuộc linh. Và khi tôi nắm lấy bước tin cậy đó và tiếp nhận
những gì Đức Chúa Trời đã hứa Ngài sẽ tha thứ cho tôi và thay đổi loại sự sống
mà tôi đã sống.
Tôi hãy còn nhớ lễ Giáng Sinh đầu tiên đáng kinh ngạc là
dường bao, vì trong mọi sự mà bài thánh ca nầy nói tới không chỉ ra việc đã xảy
ra vào thời xửa thời xưa. Bài thánh ca nói tới lời hứa sẽ hiển hiện trong lúc
bây giờ trong đời sống tôi vì có một món quà đặt dưới cây Giáng Sinh cho tôi. Joy to the World [Phước
Cho Nhân Loại] (chúng ta sẽ hát bài nầy
sau) nhắc cho chúng ta nhớ có những tin tức tốt lành. Hỡi mọi người, những
tin tức tốt lành! Đấng Christ đã ngự đến vì quí vị. Chúng ta tưởng niệm sự Ngài
ngự đến trong dịp Lễ Giáng Sinh. Đấng Christ hiện diện ở đây vì quí vị ngay bây
giờ. Chúng ta cũng tưởng niệm sự hiện diện ấy nữa. Và Đấng Christ sẽ đến một lần
nữa để tiếp đón quí vị. Và vì vậy bài thánh ca nhắc cho chúng ta nhớ, bầu trời
và thiên nhiên đang cất tiếng hát vì sự vui mừng.
Chúng ta hãy cầu nguyện: Lạy
Chúa, chúng con được nhắc nhớ bởi lời lẽ của bài thánh ca nầy và bởi Lời Kinh
thánh cho thấy tình yêu của Ngài diệu kỳ dường bao. Bây giờ chúng con sấp mình
xuống, chúng con cúi cả lòng mình xuống, và chúng con mở đời sống của chúng con
ra trước ân điển mà Ngài đã bằng lòng ban cho. Và chúng con cảm tạ Ngài vì sự
nhơn từ dư dật đã được ban cho chúng con trong Đức Chúa Jêsus Christ, trong
danh Ngài chúng con cầu nguyện, Amen.