Nếu
Đức Chúa Trời
Trở
Thành Một Con Người
Phần giới
thiệu:
Một trong
những khẳng định quan trọng trong dịp Lễ Giáng Sinh, ấy Chúa Jêsus không những
là con người trọn vẹn mà Ngài còn là Trời trọn vẹn nữa. Tân Ước có một số câu
nói khẳng định thần tánh của Chúa Jêsus. Thí dụ:
• Giăng 1:1: “Ban
đầu có Ngôi Lời, Ngôi Lời ở cùng Đức Chúa Trời, và Ngôi Lời là Đức Chúa Trời”. Giăng nói rõ rằng Chúa Jêsus là
Ngôi Lời, và vì thế Chúa Jêsus là Đức Chúa Trời.
• Giăng 1:18: “Chẳng
hề ai thấy Đức Chúa Trời; chỉ Con một ở trong lòng Cha, là Đấng đã giải bày Cha
cho chúng ta biết”.
• Giăng 20:28: “Thô-ma
thưa rằng: Lạy Chúa tôi và Đức Chúa Trời tôi!”
• Rôma 9:5: “là
dân sanh hạ bởi các tổ phụ, và theo phần xác, bởi dân ấy sanh ra Đấng Christ,
là Đấng trên hết mọi sự, tức là Đức Chúa Trời đáng ngợi khen đời đời. A-men”.
• Tít 2:13: “đang
chờ đợi sự trông cậy hạnh phước của chúng ta, và sự hiện ra của sự vinh hiển Đức
Chúa Trời lớn và Cứu Chúa chúng ta, là Đức Chúa Jêsus Christ”.
• Hêbơrơ 1:8: “Nhưng
nói về Con thì lại phán rằng: Hỡi Đức Chúa Trời, ngôi Chúa còn mãi đời nọ qua đời
kia, Quyền bính của nước Chúa là quyền bính ngay thẳng”.
• II Phierơ 1:1: “Si-môn
Phi-e-rơ, làm tôi tớ và sứ đồ của Đức Chúa Jêsus Christ, gởi cho những kẻ cậy sự
công bình của Đức Chúa Trời chúng ta và của Cứu Chúa là Đức Chúa Jêsus Christ, đã
lãnh phần đức tin đồng quí báu như của chúng tôi”.
Nhà chú giải
Kinh thánh lỗi lạc người Anh là C. S. Lewis, từng viết rằng thần tánh của Đức
Chúa Jêsus Christ không phải “là thứ mà bạn có thể đụng đến được, mà là thứ có thể nhìn
thoáng qua ở từng điểm một, hầu cho bạn sẽ phải tháo gỡ toàn bộ mạng lưới mới lần
ra được”.
Lewis nói đúng.
Mọi sự về Chúa Jêsus chỉ ra sự thực Ngài không những là Người trọn vẹn mà Ngài
còn là Trời trọn vẹn nữa.
Hãy hình
dung một nhóm bạn hữu đang nhóm lại để
nói với bạn về đức tin Cơ đốc của bạn. Họ có một ý tưởng tổng quát về những gì
Cựu Ước nói tới Đức Chúa Trời, nhưng họ đang phấn đấu với quan niệm cho rằng Đức
Chúa Trời từng đến với trần gian trong hình thể con người. Thế rồi, có người hỏi
bạn: “Nếu Đức
Chúa Trời trở thành một con người, thì Ngài sẽ là loại người nào?”
Bạn đang ở đúng
vị trí đó. Bạn trả lời thế nào với câu hỏi ấy?
Bài học:
Trong bài học
nầy, tôi muốn đề nghị một vài câu trả lời mà bạn sẽ cung ứng cho câu hỏi đó: “Nếu Đức Chúa Trời
trở thành một con người, thì Ngài sẽ là loại người nào?”
I. Nếu Đức
Chúa Trời trở thành một con người, Ngài phải có khả năng giải thích Cựu Ước.
Thứ nhứt, nếu
Đức Chúa Trời trở thành một con người, Ngài phải có khả năng giải thích Cựu Ước.
Cựu Ước có
hàng trăm câu nói như: “Đức Chúa Trời
phán...” (Sáng thế ký 1:3;
I Các Vua 3:11; v.v…) hay, “Đức Giêhôva phán…”
(Sáng thế ký 4:6; Xuất Êdíptô ký 3:7; v.v…).
Vì vậy, Đức Chúa Trời có thể cung ứng rõ ràng sự giải thích trọn vẹn những gì từng
sách trong 39 sách Cựu Ước đã nói tới.
Đây chính
xác là những gì Chúa Jêsus đã phán dạy!
Trải qua
nhiều thế kỷ, vô số các nhà thần học đã nhắm vào sự dạy của Cựu Ước, nhưng Chúa
Jêsus đã gạt hết qua một bên rồi phán cùng khán thính giả của Ngài ở một vài cơ
hội: “Các ngươi đã nghe Kinh thánh chép … Nhưng ta phán cùng các
ngươi…” (Mathiơ 5:21-22; cũng
đối chiếu 5:27-28; 5:33-34).
Ở lần sau
cùng, Chúa Jêsus đã có một bữa ăn với hai người đang ra sức tìm hiểu Cựu Ước. Chúng
ta đọc thấy rằng Chúa Jêsus phán với họ: “Hỡi
những kẻ dại dột, có lòng chậm tin lời các đấng tiên tri nói!” (Luca
24:45).
Ở một cơ hội
khác, Ngài đi xa hơn rồi phán rằng hết thảy các sách Cựu Ước đều “làm chứng về ta vậy” (Giăng
5:39), rõ ràng xưng nhận rằng cách duy nhứt để hiểu Cựu Ước là nhìn thấy Cựu
Ước đã chỉ thẳng về Ngài.
Thực vậy, khi
nói rằng chẳng có ai trong cõi lịch sử có khả năng giải thích Cựu Ước rõ ràng
và đầy đủ như Chúa Jêsus đã làm là chính xác.
II. Nếu Đức
Chúa Trời trở thành một con người, Ngài phải sống một đời sống trọn vẹn.
Thứ hai, nếu
Đức Chúa Trời trở thành một con người, Ngài phải sống một đời sống trọn vẹn.
Cựu Ước
chép rằng Đức Chúa Trời “trong
sự thánh khiết, ai được vinh hiển như Ngài” (Xuất Êdíptô ký
15:11) và “đầy dẫy sự công bình” (Thi thiên 48:10). Nói khác đi, Đức Chúa
Trời là trọn lành.
Chúa Jêsus
cũng một thể ấy!
Kinh thánh
chép rằng Chúa Jêsus “bị
thử thách trong mọi việc cũng như chúng ta, song chẳng phạm tội” (Hêbơrơ
4:15).
Kinh thánh
hay khẳng định rằng Chúa Jêsus “vốn
chẳng biết tội lỗi” (II Côrinhtô 5:21), rằng Ngài
“không lỗi không vít” (I
Phierơ 1:19), và Ngài là “thánh
khiết, không tội, không ô uế, biệt khỏi kẻ có tội” (Hêbơrơ
7:26).
Bạn có bao
giờ tìm cách sống một đời sống trọn vẹn
chưa? Tôi đã cố gắng, và tôi đã thất bại rất tội nghiệp. Tôi thường khởi sự nổ
lực của mình hầu sống trọn vẹn vào những ngày thứ Hai. Tuy nhiên, tôi không sao
thực hiện được trước giờ ăn trưa vào ngày thứ hai. Tôi chẳng có khả năng làm điều
chi để với tới sự trọn lành ấy.
Tuy nhiên, Chúa
Jêsus thì khác biệt hoàn toàn. Chẳng có một chỗ nào ghi lại một sơ xuất đạo đức
nhỏ nhất nơi đời sống của Ngài — chẳng hề
có! Ở chiều hướng ấy, trừ ra Chúa Jêsus thì chẳng có ai khác trong cõi lịch sử
có một lai lịch hoàn hảo không tì vít chi hết. Thực vậy, đời sống đạo đức của Ngài chính xác là những gì chúng
ta trông mong từ chính mình Đức Chúa Trời — sự trọn lành.
III. Nếu Đức
Chúa Trời trở thành một con người, Ngài phải biết rõ mọi sự ai nấy đang suy nghĩ
Thứ ba, nếu
Đức Chúa Trời trở thành một con người, Ngài phải biết rõ mọi sự mà ai nấy đang
suy nghĩ.
Kinh thánh
cho chúng ta biết rằng Đức Chúa Trời là “Đức
Chúa Trời thông biết mọi điều” (I Samuên 2:3), và là “Đấng
có trí huệ trọn vẹn” (Gióp 37:16). Hơn nữa, Đức
Chúa Trời “biết cả mọi sự” (I Giăng 3:20).
Cũng một việc
ấy đã nói về Chúa Jêsus!
Kinh thánh
chép rằng Chúa Jêsus “nhận
biết mọi người” (Giăng 2:24) và “tự hiểu thấu mọi điều trong lòng người ta” (Giăng
2:25). Ở những chỗ khác, chúng ta đọc thấy Chúa Jêsus có “mọi sự quí báu về khôn ngoan thông sáng” (Côlôse
2:3).
Vợ tôi có
khi nói rằng cô ấy biết mọi điều tôi suy nghĩ. Và, may thay, nàng thuờng nói đúng!
Nhưng, có lúc nàng cũng sai trật!
Tuy nhiên, Chúa
Jêsus không bao giờ phạm một sai lầm về việc nhìn biết mọi điều ai đó đang suy
nghĩ.
IV. Nếu Đức
Chúa Trời trở thành một con người, Ngài phải không thay đổi.
Thứ tư, nếu
Đức Chúa Trời trở thành con người, Ngài phải không thay đổi.
Khi tôi nói
rằng Đức Chúa Trời không thay đổi, tôi muốn nói rằng “Đức Chúa Trời không thay đổi trong ý định của
Ngài, trong sự trọn vẹn, trong sự hiện hữu và trong mọi lời hứa của Ngài, tuy
nhiên Đức Chúa Trời đang vận hành và rất tình cảm, và Ngài vận hành và tình cảm
rất khác khi đáp ứng với từng hoàn cảnh khác nhau”.
Vì thế, Đức
Chúa Trời đã phán về chính mình Ngài: “Vì
ta là Đức Giê-hô-va, ta không hề thay đổi” (Malachi 3:6). Một
trong các tác giả Thi thiên đã đồng tình nói về Đức Chúa Trời: “Song Chúa không hề biến cải, các năm Chúa
không hề cùng” (Thi thiên 102:27).
Cũng chính
lời lẽ ấy đã được áp dụng cho Chúa Jêsus!
Thực vậy, tác
giả thơ Hêbơrơ đã áp dụng chính xác chính lời lẽ đó cho Chúa Jêsus ở Hêbơrơ 1:12: “Nhưng Chúa vẫn y nguyên, các năm của Chúa
không hề cùng”. Ông cũng nói y như thế: “Đức
Chúa Jêsus Christ hôm qua, ngày nay, và cho đến đời đời không hề thay đổi” (Hêbơrơ
13:8).
Và Giăng đã
ghi lại Chúa Jêsus như đang phán: “Ta
là An-pha và Ô-mê-ga, là thứ nhất và là sau chót, là đầu và là rốt” (Khải
huyền 22:13).
V. Nếu Đức
Chúa Trời trở thành một con người, Ngài phải có khả năng giải quyết bất kỳ khủng
hoảng lương thực ngay tức khắc
Thứ năm, nếu
Đức Chúa Trời trở thành một con người, Ngài phải có khả năng giải quyết bất kỳ
khủng hoảng lương thực nào ngay tức khắc.
Đức Chúa Trời
đã làm điều nầy trong Cựu Ước. Trong nhiều năm trời, Ngài đã gửi lương thực thật
lạ lùng (chim cút và mana) để làm thoả
mãn mọi nhu cần của dân sự Ngài khi họ phiêu bạt trong đồng vắng sau khi họ ra
khỏi xứ Aicập (xem Xuất Êdíptô ký 16).
Ở một dịp khác, trong chức vụ của tiên tri Êlisê, Đức Chúa Trời cũng tiếp trợ mọi nhu cần ít nhất 100 người với vài ổ bánh (II Các Vua 4:42-44).
Ở một dịp khác, trong chức vụ của tiên tri Êlisê, Đức Chúa Trời cũng tiếp trợ mọi nhu cần ít nhất 100 người với vài ổ bánh (II Các Vua 4:42-44).
Chúa Jêsus
cũng giải quyết một cuộc khủng hoảng về lương thực!
Thật vậy, Chúa
Jêsus đã giải quyết một cuộc khủng hoảng lương thực không những một lần mà là
hai lần! Ngài đã lấy năm ổ bánh và hai con cá cho hơn 5.000 người ăn theo cùng
một phương thức “ai nấy đều ăn no” với “đầy 12 giỏ” mẫu bánh thừa (đối chiếu Mathiơ 14:13-21).
Ở một dịp
khác, Chúa Jêsus đã sử dụng 7 ổ bánh và vài con cá nhỏ để làm thoả mãn mọi nhu
cần của hơn 4.000 người, và 7 giỏ bánh còn thừa lại (đối chiếu Mathiơ 15:37-38).
VI. Nếu Đức
Chúa Trời trở thành một con người, Ngài phải có khả năng chữa lành mọi thứ tật
bịnh bất cứ khi nào Ngài chọn chữa lành cho.
Thứ sáu, nếu
Đức Chúa Trời trở thành một con người, Ngài phải có khả năng chữa lành mọi thứ
tật bịnh bất cứ khi nào Ngài chọn chữa lành cho.
Trong Cựu Ước,
quyền phép của Đức Chúa Trời chữa lành như vậy khi Ngài phán cùng dân sự Ngài: “vì ta là Đức Giê-hô-va, Đấng chữa bịnh cho
ngươi” (Xuất
Êdíptô ký 15:26). Đức Chúa Trời có khả năng kết thúc những trận dịch như
Ngài đã chọn (xem Mười Dịch Lệ ở Aicập).
Chúa Jêsus
cũng có khả năng chữa lành từng thứ tật bịnh nữa!
Một trong
các đặc điểm trước tiên bắt lấy một tân độc giả của các sách Tin Lành — những
quyển sách thuật lại câu chuyện về đời sống
của Chúa Jêsus — thể nào Ngài thường chữa lành cho dân sự. Ngài cũng chữa
lành cho nhiều người. Ngài đã chữa lành cho người mù, kẻ điếc, người câm, kẻ
què, người phung, người bại — thực vậy, ở một chỗ kia chúng ta thấy Chúa Jêsus “chữa lành mọi thứ tật bịnh trong dân” (Mathiơ
4:23). Quyền phép chữa lành của Ngài trỗi hơn sự giải cứu về mặt thuộc thể “chữa lành hết thảy những người bị ma quỉ ức
hiếp” (Công Vụ các Sứ Đồ 10:38). Chúa Jêsus thường chữa lành cho người ta ở chỗ cạn kiệt về
mặt thuộc thể.
VII. Nếu Đức
Chúa Trời trở thành một con người, Ngài có thể đem kẻ chết trở lại với sự sống
Thứ bảy, nếu
Đức Chúa Trời trở thành một con người, Ngài có thể đem kẻ chết trở lại với sự sống.
Đức Chúa Trời
đã làm việc nầy trong thời Cựu Ước. Ngài đã sử dụng tiên tri Êli đem con trai của
bà goá trở lại với sự sống (đối chiếu I Các Vua 17:17-24).
Đức Chúa Trời
cũng sử dụng tiên tri Êlisê phục hồi sự sống cho một đứa trẻ khác (đối chiếu II Các Vua 4:8-37).
Chúa Jêsus
cũng đem kẻ chết trở lại với sự sống!
Thực vậy, Chúa
Jêsus đã đem kẻ chết trở lại với sự sống mấy lần! Ngài đã đem ít nhất ba người
trở lại với sự sống, kể cả người đã bị chôn bốn ngày rồi (đối chiếu Luca 7:11-17; Mathiơ 9:18-26; Giăng 11:1-44).
Lý do Chúa
Jêsus có quyền đem kẻ chết lại sống là vì Ngài có quyền phép thắng hơn sự chết.
VIII. Nếu Đức
Chúa Trời trở thành một con người, Ngài phải điều khiển các yếu tố thiên nhiên
Thứ tám, nếu
Đức Chúa Trời trở thành một con người, Ngài phải điều khiển các yếu tố thiên
nhiên.
Trường hợp
ai cũng biết trong Cựu Ước nói về Đức Chúa Trời điều khiển các yếu tố thiên
nhiên đã xảy ra ở tại Biển Đỏ. Đức Chúa Trời đã cầm biển lại để cho dân Israel
có thể băng qua như đi trên đất khô đến bờ bên kia tránh thoát quân Aicập đang
truy đuổi (đối chiếu Xuất Êdíptô ký
14:1-31).
Ở một dịp
khác, Đức Chúa Trời đã cầm nước của sông Giôđanh lại để cho dân sự của Đức Chúa
Trời có thể băng qua như đi trên đất khô mà vào trong Đất Hứa (đối chiếu Xuất Êdíptô ký 3:1-17).
Chúa Jêsus đã
chứng tỏ chính quyền điều khiển đó trên các yếu tố thiên nhiên!
Khi Chúa
Jêsus cùng các môn đồ Ngài bị kẹt trong “sóng gió”
trên Biển Galilê và các môn đồ nghĩ chắc chắn họ sẽ bị nhận chìm, Chúa Jêsus “khiến gió và sóng phải bình tịnh thì liền
bình tịnh và yên lặng như tờ” (Luca 8:24). Thật là kinh ngạc
khi thấy các môn đồ đều “sợ hãi”,
vá nói với nhau: “Người nầy là ai, khiến đến
gió và nước, mà cũng phải vâng lời người?” (Luca 8:25).
IX. Nếu Đức
Chúa Trời trở thành một con người, rồi không cứ cách nào đó bị đặt vào chỗ chết,
Ngài phải trở lại với sự sống
Và thứ chín,
nếu Đức Chúa Trời trở thành một con người và không cứ cách nào đó bị đặt vào chỗ
chết, Ngài phải trở lại với sự sống.
Điều nầy là
thực rất hiển nhiên, một khi Ngài là “Đức Chúa Trời hằng
sống” (Phục truyền luật lệ
ký 33:27).
Tuy nhiên, đây
chính xác là những gì Chúa Jêsus đã có!
Sau khi
Chúa Jêsus bị hành hình công khai trên một cây thập tự của người Lamã và bị
chôn trong một ngôi mộ đã đuợc canh giữ bởi lính tráng Lamã, Ngài đã hiện ra
nhiều lần với các môn đồ Ngài. Thực vậy, Kinh thánh chép rằng Chúa Jêsus đã lấy
“nhiều chứng cớ tỏ ra mình là sống” (Công Vụ các Sứ Đồ 1:3) trước khi Ngài “được đem lên trời” (Mác 16:19).
Có nhiều chứng
cớ nữa cho sự phục sinh của Chúa Jêsus hơn bất kỳ bằng chứng lịch sử nào khác nữa
trong lịch sử cổ đại. Trong thế kỷ qua, có một vài cá nhân quan trọng đã thực
thi phần việc minh chứng sự phục sinh của Chúa Jêsus là sai lầm. Nhưng trong từng
trường hợp mà tôi đã biết, hết thảy họ đều bị thuyết phục sự phục sinh của Chúa
Jêsus là có thật.
Tôi cũng rất
ấn tượng bởi sự chống đối mới đây đối với Chúa Jêsus (và Cơ đốc giáo) bằng những kẻ được gọi là những “tay vô thần mới”.
Họ luận rằng chẳng có một minh chứng nào về Đức Chúa Trời cả. Vấn đề, như tôi
xem thấy, ấy là họ đang tìm minh chứng khoa học nói tới sự tồn tại của Đức Chúa
Trời, khi sự thực cho thấy, bằng chứng không nằm trong khoa học mà nằm trong lịch
sử. Một luật sư, trong một vụ giết người trình bày bằng chứng cho vụ án của ông.
Ồ, ông ta có thể sử dụng một số bằng chứng khoa học để hỗ trợ cho ca xử của ông,
song về mặt cơ bản, ông ta đang tìm cách minh chứng rằng ngưyên cáo đã có mặt ở
một thời điểm và một nơi chốn đặc biệt, rồi vì thế đã phạm tội giết người. Tương
tự thế, trong việc nhìn vào bằng chứng nói tới Chúa Jêsus, người ta phải nhìn
vào bằng chứng lịch sử kìa.
Phần kết
luận:
Thành thực
mà nói, đối với hạng người biết suy nghĩ, chín vấn đề trên đấy rất có ấn tượng.
Như quí vị
biết đấy, có nhiều sự tranh cãi về việc xác định con người. Một sơ lược tiểu sử
chỉ là một danh sách các đặc điểm thuộc về một người nào đó. Các đặc điểm nầy
sau đó được đưa vào cơ sở dữ liệu có cần nếu có vấn đề.
Nếu một người
lập hồ sơ rút tỉa hết mọi dữ liệu theo Kinh thánh mà chúng ta có về Đức Chúa Trời,
sau đó nhìn vào đối tượng giữa vòng sáu tỉ người đã từng sống trên hành tinh địa
cầu, người ấy sẽ tìm gặp đúng một đối tượng — ấy là Đức Chúa Jêsus Christ ở
thành Naxarét!
Chúa Jêsus
thực sự là Đức Chúa Trời. Ngài thực sự đã trở thành một con người.
Thắc mắc là:
tại sao Ngài lại phải như thế?
Chúa Jêsus
phán rằng “Bởi Con người [nghĩa là, Chúa Jêsus] đã
đến tìm và cứu kẻ bị mất” (Luca 19:10).
Chúa Jêsus đã đến để cứu người nào bị hư mất vì cớ tội lỗi của họ — và bao gồm cả thảy chúng ta nữa.
Chúa Jêsus đã đến để cứu người nào bị hư mất vì cớ tội lỗi của họ — và bao gồm cả thảy chúng ta nữa.
Chúa Jêsus đã
sống một đời sống trọn vẹn, vô tội. Hiển nhiên, Ngài đã chịu chết trên thập tự
giá của người Lamã để trả giá án phạt dành cho tội lỗi, song không phải tội lỗi
của Ngài, vì Ngài chẳng có tội chi hết. Ngài đã trả giá cho hạng tội nhân giống
như bạn và tôi.
Và vì vậy,
Lễ Giáng Sinh nầy tôi mời quí vị, nếu quí vị chưa hề làm như vậy, hãy nhìn nhận
với Đức Chúa Trời bạn là một tội nhân. Hãy công nhận rằng bạn đáng phải trả giá
án phạt vì chính tội lỗi của bạn. Hãy cầu xin Chúa Jêsus trả giá án phạt cho tội
lỗi của bạn.
Nếu bạn xây
khỏi tội lỗi mình và tin cậy nơi Đức Chúa Jêsus Christ, bạn sẽ thấy Đức Chúa Trời
tha thứ cho bạn và ưng ban món quà sự sống đời đời cho.
Tôi nguyện
rằng bạn sẽ làm điều đó ngay hôm nay. Amen.
