Thứ Hai, 17 tháng 12, 2012

Nếu Đức Chúa Trời Trở Thành Một Con Người



Nếu Đức Chúa Trời

Trở Thành Một Con Người

Phần giới thiệu:
            Một trong những khẳng định quan trọng trong dịp Lễ Giáng Sinh, ấy Chúa Jêsus không những là con người trọn vẹn mà Ngài còn là Trời trọn vẹn nữa. Tân Ước có một số câu nói khẳng định thần tánh của Chúa Jêsus. Thí dụ:
Giăng 1:1: Ban đầu có Ngôi Lời, Ngôi Lời ở cùng Đức Chúa Trời, và Ngôi Lời là Đức Chúa Trời. Giăng nói rõ rằng Chúa Jêsus là Ngôi Lời, và vì thế Chúa Jêsus là Đức Chúa Trời.
Giăng 1:18: Chẳng hề ai thấy Đức Chúa Trời; chỉ Con một ở trong lòng Cha, là Đấng đã giải bày Cha cho chúng ta biết.
Giăng 20:28:Thô-ma thưa rằng: Lạy Chúa tôi và Đức Chúa Trời tôi!
Rôma 9:5: là dân sanh hạ bởi các tổ phụ, và theo phần xác, bởi dân ấy sanh ra Đấng Christ, là Đấng trên hết mọi sự, tức là Đức Chúa Trời đáng ngợi khen đời đời. A-men.
Tít 2:13: đang chờ đợi sự trông cậy hạnh phước của chúng ta, và sự hiện ra của sự vinh hiển Đức Chúa Trời lớn và Cứu Chúa chúng ta, là Đức Chúa Jêsus Christ.
Hêbơrơ 1:8: Nhưng nói về Con thì lại phán rằng: Hỡi Đức Chúa Trời, ngôi Chúa còn mãi đời nọ qua đời kia, Quyền bính của nước Chúa là quyền bính ngay thẳng.
II Phierơ 1:1: “Si-môn Phi-e-rơ, làm tôi tớ và sứ đồ của Đức Chúa Jêsus Christ, gởi cho những kẻ cậy sự công bình của Đức Chúa Trời chúng ta và của Cứu Chúa là Đức Chúa Jêsus Christ, đã lãnh phần đức tin đồng quí báu như của chúng tôi”.
            Nhà chú giải Kinh thánh lỗi lạc người Anh là C. S. Lewis, từng viết rằng thần tánh của Đức Chúa Jêsus Christ không phải “là thứ mà bạn có thể đụng đến được, mà là thứ có thể nhìn thoáng qua ở từng điểm một, hầu cho bạn sẽ phải tháo gỡ toàn bộ mạng lưới mới lần ra được”.
            Lewis nói đúng. Mọi sự về Chúa Jêsus chỉ ra sự thực Ngài không những là Người trọn vẹn mà Ngài còn là Trời trọn vẹn nữa.
            Hãy hình dung một nhóm bạn hữu đang  nhóm lại để nói với bạn về đức tin Cơ đốc của bạn. Họ có một ý tưởng tổng quát về những gì Cựu Ước nói tới Đức Chúa Trời, nhưng họ đang phấn đấu với quan niệm cho rằng Đức Chúa Trời từng đến với trần gian trong hình thể con người. Thế rồi, có người hỏi bạn: “Nếu Đức Chúa Trời trở thành một con người, thì Ngài sẽ là  loại người nào?”
            Bạn đang ở đúng vị trí đó. Bạn trả lời thế nào với câu hỏi ấy?
Bài học:
            Trong bài học nầy, tôi muốn đề nghị một vài câu trả lời mà bạn sẽ cung ứng cho câu hỏi đó: “Nếu Đức Chúa Trời trở thành một con người, thì Ngài sẽ là loại người nào?”
I. Nếu Đức Chúa Trời trở thành một con người, Ngài phải có khả năng giải thích Cựu Ước.
            Thứ nhứt, nếu Đức Chúa Trời trở thành một con người, Ngài phải có khả năng giải thích Cựu Ước.
            Cựu Ước có hàng trăm câu nói như: “Đức Chúa Trời phán...” (Sáng thế ký 1:3; I Các Vua 3:11; v.v…) hay, “Đức Giêhôva phán…” (Sáng thế ký 4:6; Xuất Êdíptô ký 3:7; v.v…). Vì vậy, Đức Chúa Trời có thể cung ứng rõ ràng sự giải thích trọn vẹn những gì từng sách trong 39 sách Cựu Ước đã nói tới.
            Đây chính xác là những gì Chúa Jêsus đã phán dạy!
            Trải qua nhiều thế kỷ, vô số các nhà thần học đã nhắm vào sự dạy của Cựu Ước, nhưng Chúa Jêsus đã gạt hết qua một bên rồi phán cùng khán thính giả của Ngài ở một vài cơ hội: “Các ngươi đã nghe Kinh thánh chép … Nhưng ta phán cùng các ngươi…” (Mathiơ 5:21-22; cũng đối chiếu 5:27-28; 5:33-34).
            Ở lần sau cùng, Chúa Jêsus đã có một bữa ăn với hai người đang ra sức tìm hiểu Cựu Ước. Chúng ta đọc thấy rằng Chúa Jêsus phán với họ: Hỡi những kẻ dại dột, có lòng chậm tin lời các đấng tiên tri nói! (Luca 24:45).
            Ở một cơ hội khác, Ngài đi xa hơn rồi phán rằng hết thảy các sách Cựu Ước đều làm chứng về ta vậy (Giăng 5:39), rõ ràng xưng nhận rằng cách duy nhứt để hiểu Cựu Ước là nhìn thấy Cựu Ước đã chỉ thẳng về Ngài.
            Thực vậy, khi nói rằng chẳng có ai trong cõi lịch sử có khả năng giải thích Cựu Ước rõ ràng và đầy đủ như Chúa Jêsus đã làm là chính xác.
II. Nếu Đức Chúa Trời trở thành một con người, Ngài phải sống một đời sống trọn vẹn.
            Thứ hai, nếu Đức Chúa Trời trở thành một con người, Ngài phải sống một đời sống trọn vẹn.
            Cựu Ước chép rằng Đức Chúa Trời “trong sự thánh khiết, ai được vinh hiển như Ngài (Xuất Êdíptô ký 15:11)“đầy dẫy sự công bình” (Thi thiên 48:10). Nói khác đi, Đức Chúa Trời là trọn lành.
            Chúa Jêsus cũng một thể ấy!
            Kinh thánh chép rằng Chúa Jêsus bị thử thách trong mọi việc cũng như chúng ta, song chẳng phạm tội (Hêbơrơ 4:15).
            Kinh thánh hay khẳng định rằng Chúa Jêsus vốn chẳng biết tội lỗi (II Côrinhtô 5:21), rằng Ngài không lỗi không vít (I Phierơ 1:19), và Ngài là thánh khiết, không tội, không ô uế, biệt khỏi kẻ có tội (Hêbơrơ 7:26).
            Bạn có bao giờ tìm cách sống một đời sống  trọn vẹn chưa? Tôi đã cố gắng, và tôi đã thất bại rất tội nghiệp. Tôi thường khởi sự nổ lực của mình hầu sống trọn vẹn vào những ngày thứ Hai. Tuy nhiên, tôi không sao thực hiện được trước giờ ăn trưa vào ngày thứ hai. Tôi chẳng có khả năng làm điều chi để với tới sự trọn lành ấy.
            Tuy nhiên, Chúa Jêsus thì khác biệt hoàn toàn. Chẳng có một chỗ nào ghi lại một sơ xuất đạo đức nhỏ nhất nơi đời sống  của Ngài — chẳng hề có! Ở chiều hướng ấy, trừ ra Chúa Jêsus thì chẳng có ai khác trong cõi lịch sử có một lai lịch hoàn hảo không tì vít chi hết. Thực vậy, đời sống  đạo đức của Ngài chính xác là những gì chúng ta trông mong từ chính mình Đức Chúa Trời — sự trọn lành.
III. Nếu Đức Chúa Trời trở thành một con người, Ngài phải biết rõ mọi sự ai nấy đang suy nghĩ
            Thứ ba, nếu Đức Chúa Trời trở thành một con người, Ngài phải biết rõ mọi sự mà ai nấy đang suy nghĩ.
            Kinh thánh cho chúng ta biết rằng Đức Chúa Trời làĐức Chúa Trời thông biết mọi điều (I Samuên 2:3), và là Đấng có trí huệ trọn vẹn (Gióp 37:16). Hơn nữa, Đức Chúa Trời biết cả mọi sự (I Giăng 3:20).
            Cũng một việc ấy đã nói về Chúa Jêsus!
            Kinh thánh chép rằng Chúa Jêsus nhận biết mọi người (Giăng 2:24)tự hiểu thấu mọi điều trong lòng người ta (Giăng 2:25). Ở những chỗ khác, chúng ta đọc thấy Chúa Jêsus có mọi sự quí báu về khôn ngoan thông sáng (Côlôse 2:3).
            Vợ tôi có khi nói rằng cô ấy biết mọi điều tôi suy nghĩ. Và, may thay, nàng thuờng nói đúng! Nhưng, có lúc nàng cũng sai trật!
            Tuy nhiên, Chúa Jêsus không bao giờ phạm một sai lầm về việc nhìn biết mọi điều ai đó đang suy nghĩ.
IV. Nếu Đức Chúa Trời trở thành một con người, Ngài phải không thay đổi.
            Thứ tư, nếu Đức Chúa Trời trở thành con người, Ngài phải không thay đổi.
            Khi tôi nói rằng Đức Chúa Trời không thay đổi, tôi muốn nói rằng “Đức Chúa Trời không thay đổi trong ý định của Ngài, trong sự trọn vẹn, trong sự hiện hữu và trong mọi lời hứa của Ngài, tuy nhiên Đức Chúa Trời đang vận hành và rất tình cảm, và Ngài vận hành và tình cảm rất khác khi đáp ứng với từng hoàn cảnh khác nhau”.
            Vì thế, Đức Chúa Trời đã phán về chính mình Ngài: Vì ta là Đức Giê-hô-va, ta không hề thay đổi (Malachi 3:6). Một trong các tác giả Thi thiên đã đồng tình nói về Đức Chúa Trời: Song Chúa không hề biến cải, các năm Chúa không hề cùng (Thi thiên 102:27).
            Cũng chính lời lẽ ấy đã được áp dụng cho Chúa Jêsus!
            Thực vậy, tác giả thơ Hêbơrơ đã áp dụng chính xác chính lời lẽ đó cho Chúa Jêsus ở Hêbơrơ 1:12:Nhưng Chúa vẫn y nguyên, các năm của Chúa không hề cùng. Ông cũng nói y như thế:Đức Chúa Jêsus Christ hôm qua, ngày nay, và cho đến đời đời không hề thay đổi (Hêbơrơ 13:8).
            Và Giăng đã ghi lại Chúa Jêsus như đang phán: Ta là An-pha và Ô-mê-ga, là thứ nhất và là sau chót, là đầu và là rốt (Khải huyền 22:13).
V. Nếu Đức Chúa Trời trở thành một con người, Ngài phải có khả năng giải quyết bất kỳ khủng hoảng lương thực ngay tức khắc
            Thứ năm, nếu Đức Chúa Trời trở thành một con người, Ngài phải có khả năng giải quyết bất kỳ khủng hoảng lương thực nào ngay tức khắc.
            Đức Chúa Trời đã làm điều nầy trong Cựu Ước. Trong nhiều năm trời, Ngài đã gửi lương thực thật lạ lùng (chim cút và mana) để làm thoả mãn mọi nhu cần của dân sự Ngài khi họ phiêu bạt trong đồng vắng sau khi họ ra khỏi xứ Aicập (xem Xuất Êdíptô ký 16).
            Ở một dịp khác, trong chức vụ của tiên tri Êlisê, Đức Chúa Trời cũng tiếp trợ mọi nhu cần ít nhất 100 người với vài ổ bánh (II Các Vua 4:42-44).
            Chúa Jêsus cũng giải quyết một cuộc khủng hoảng về lương thực!
            Thật vậy, Chúa Jêsus đã giải quyết một cuộc khủng hoảng lương thực không những một lần mà là hai lần! Ngài đã lấy năm ổ bánh và hai con cá cho hơn 5.000 người ăn theo cùng một phương thức “ai nấy đều ăn no” với “đầy 12 giỏ” mẫu bánh thừa (đối chiếu Mathiơ 14:13-21).
            Ở một dịp khác, Chúa Jêsus đã sử dụng 7 ổ bánh và vài con cá nhỏ để làm thoả mãn mọi nhu cần của hơn 4.000 người, và 7 giỏ bánh còn thừa lại (đối chiếu Mathiơ 15:37-38).
VI. Nếu Đức Chúa Trời trở thành một con người, Ngài phải có khả năng chữa lành mọi thứ tật bịnh bất cứ khi nào Ngài chọn chữa lành cho.
            Thứ sáu, nếu Đức Chúa Trời trở thành một con người, Ngài phải có khả năng chữa lành mọi thứ tật bịnh bất cứ khi nào Ngài chọn chữa lành cho.
            Trong Cựu Ước, quyền phép của Đức Chúa Trời chữa lành như vậy khi Ngài phán cùng dân sự Ngài: vì ta là Đức Giê-hô-va, Đấng chữa bịnh cho ngươi (Xuất Êdíptô ký 15:26). Đức Chúa Trời có khả năng kết thúc những trận dịch như Ngài đã chọn (xem Mười Dịch Lệ ở Aicập).
            Chúa Jêsus cũng có khả năng chữa lành từng thứ tật bịnh nữa!
            Một trong các đặc điểm trước tiên bắt lấy một tân độc giả của các sách Tin Lành — những quyển sách thuật lại câu chuyện về đời sống  của Chúa Jêsus — thể nào Ngài thường chữa lành cho dân sự. Ngài cũng chữa lành cho nhiều người. Ngài đã chữa lành cho người mù, kẻ điếc, người câm, kẻ què, người phung, người bại — thực vậy, ở một chỗ kia chúng ta thấy Chúa Jêsus chữa lành mọi thứ tật bịnh trong dân (Mathiơ 4:23). Quyền phép chữa lành của Ngài trỗi hơn sự giải cứu về mặt thuộc thểchữa lành hết thảy những người bị ma quỉ ức hiếp (Công Vụ các Sứ Đồ 10:38). Chúa Jêsus thường chữa lành cho người ta ở chỗ cạn kiệt về mặt thuộc thể.
VII. Nếu Đức Chúa Trời trở thành một con người, Ngài có thể đem kẻ chết trở lại với sự sống 
            Thứ bảy, nếu Đức Chúa Trời trở thành một con người, Ngài có thể đem kẻ chết trở lại với sự sống.
            Đức Chúa Trời đã làm việc nầy trong thời Cựu Ước. Ngài đã sử dụng tiên tri Êli đem con trai của bà goá trở lại với sự sống  (đối chiếu I Các Vua 17:17-24).
            Đức Chúa Trời cũng sử dụng tiên tri Êlisê phục hồi sự sống cho một đứa trẻ khác (đối chiếu II Các Vua 4:8-37).
            Chúa Jêsus cũng đem kẻ chết trở lại với sự sống!
            Thực vậy, Chúa Jêsus đã đem kẻ chết trở lại với sự sống mấy lần! Ngài đã đem ít nhất ba người trở lại với sự sống, kể cả người đã bị chôn bốn ngày rồi (đối chiếu Luca 7:11-17; Mathiơ 9:18-26; Giăng 11:1-44).
            Lý do Chúa Jêsus có quyền đem kẻ chết lại sống là vì Ngài có quyền phép thắng hơn sự chết.
VIII. Nếu Đức Chúa Trời trở thành một con người, Ngài phải điều khiển các yếu tố thiên nhiên
            Thứ tám, nếu Đức Chúa Trời trở thành một con người, Ngài phải điều khiển các yếu tố thiên nhiên.
            Trường hợp ai cũng biết trong Cựu Ước nói về Đức Chúa Trời điều khiển các yếu tố thiên nhiên đã xảy ra ở tại Biển Đỏ. Đức Chúa Trời đã cầm biển lại để cho dân Israel có thể băng qua như đi trên đất khô đến bờ bên kia tránh thoát quân Aicập đang truy đuổi (đối chiếu Xuất Êdíptô ký 14:1-31).
            Ở một dịp khác, Đức Chúa Trời đã cầm nước của sông Giôđanh lại để cho dân sự của Đức Chúa Trời có thể băng qua như đi trên đất khô mà vào trong Đất Hứa (đối chiếu Xuất Êdíptô ký 3:1-17).
            Chúa Jêsus đã chứng tỏ chính quyền điều khiển đó trên các yếu tố thiên nhiên!
            Khi Chúa Jêsus cùng các môn đồ Ngài bị kẹt trong “sóng gió” trên Biển Galilê và các môn đồ nghĩ chắc chắn họ sẽ bị nhận chìm, Chúa Jêsus khiến gió và sóng phải bình tịnh thì liền bình tịnh và yên lặng như tờ (Luca 8:24). Thật là kinh ngạc khi thấy các môn đồ đều “sợ hãi”, vá nói với nhau:Người nầy là ai, khiến đến gió và nước, mà cũng phải vâng lời người? (Luca 8:25).
IX. Nếu Đức Chúa Trời trở thành một con người, rồi không cứ cách nào đó bị đặt vào chỗ chết, Ngài phải trở lại với sự sống 
            Và thứ chín, nếu Đức Chúa Trời trở thành một con người và không cứ cách nào đó bị đặt vào chỗ chết, Ngài phải trở lại với sự sống.
            Điều nầy là thực rất hiển nhiên, một khi Ngài là “Đức Chúa Trời hằng sống” (Phục truyền luật lệ ký 33:27).
            Tuy nhiên, đây chính xác là những gì Chúa Jêsus đã có!
            Sau khi Chúa Jêsus bị hành hình công khai trên một cây thập tự của người Lamã và bị chôn trong một ngôi mộ đã đuợc canh giữ bởi lính tráng Lamã, Ngài đã hiện ra nhiều lần với các môn đồ Ngài. Thực vậy, Kinh thánh chép rằng Chúa Jêsus đã lấy “nhiều chứng cớ tỏ ra mình là sống” (Công Vụ các Sứ Đồ 1:3) trước khi Ngài “được đem lên trời” (Mác 16:19).
            Có nhiều chứng cớ nữa cho sự phục sinh của Chúa Jêsus hơn bất kỳ bằng chứng lịch sử nào khác nữa trong lịch sử cổ đại. Trong thế kỷ qua, có một vài cá nhân quan trọng đã thực thi phần việc minh chứng sự phục sinh của Chúa Jêsus là sai lầm. Nhưng trong từng trường hợp mà tôi đã biết, hết thảy họ đều bị thuyết phục sự phục sinh của Chúa Jêsus là có thật.
            Tôi cũng rất ấn tượng bởi sự chống đối mới đây đối với Chúa Jêsus (và Cơ đốc giáo) bằng những kẻ được gọi là những “tay vô thần mới”. Họ luận rằng chẳng có một minh chứng nào về Đức Chúa Trời cả. Vấn đề, như tôi xem thấy, ấy là họ đang tìm minh chứng khoa học nói tới sự tồn tại của Đức Chúa Trời, khi sự thực cho thấy, bằng chứng không nằm trong khoa học mà nằm trong lịch sử. Một luật sư, trong một vụ giết người trình bày bằng chứng cho vụ án của ông. Ồ, ông ta có thể sử dụng một số bằng chứng khoa học để hỗ trợ cho ca xử của ông, song về mặt cơ bản, ông ta đang tìm cách minh chứng rằng ngưyên cáo đã có mặt ở một thời điểm và một nơi chốn đặc biệt, rồi vì thế đã phạm tội giết người. Tương tự thế, trong việc nhìn vào bằng chứng nói tới Chúa Jêsus, người ta phải nhìn vào bằng chứng lịch sử kìa.
Phần kết luận:
            Thành thực mà nói, đối với hạng người biết suy nghĩ, chín vấn đề trên đấy rất có ấn tượng.
            Như quí vị biết đấy, có nhiều sự tranh cãi về việc xác định con người. Một sơ lược tiểu sử chỉ là một danh sách các đặc điểm thuộc về một người nào đó. Các đặc điểm nầy sau đó được đưa vào cơ sở dữ liệu có cần nếu có vấn đề.
            Nếu một người lập hồ sơ rút tỉa hết mọi dữ liệu theo Kinh thánh mà chúng ta có về Đức Chúa Trời, sau đó nhìn vào đối tượng giữa vòng sáu tỉ người đã từng sống trên hành tinh địa cầu, người ấy sẽ tìm gặp đúng một đối tượng — ấy là Đức Chúa Jêsus Christ ở thành Naxarét!
            Chúa Jêsus thực sự là Đức Chúa Trời. Ngài thực sự đã trở thành một con người.
            Thắc mắc là: tại sao Ngài lại phải như thế?
            Chúa Jêsus phán rằng Bởi Con người [nghĩa là, Chúa Jêsus] đã đến tìm và cứu kẻ bị mất (Luca 19:10).
            Chúa Jêsus đã đến để cứu người nào bị hư mất vì cớ tội lỗi của họ — và bao gồm cả thảy chúng ta nữa.
            Chúa Jêsus đã sống một đời sống trọn vẹn, vô tội. Hiển nhiên, Ngài đã chịu chết trên thập tự giá của người Lamã để trả giá án phạt dành cho tội lỗi, song không phải tội lỗi của Ngài, vì Ngài chẳng có tội chi hết. Ngài đã trả giá cho hạng tội nhân giống như bạn và tôi.
            Và vì vậy, Lễ Giáng Sinh nầy tôi mời quí vị, nếu quí vị chưa hề làm như vậy, hãy nhìn nhận với Đức Chúa Trời bạn là một tội nhân. Hãy công nhận rằng bạn đáng phải trả giá án phạt vì chính tội lỗi của bạn. Hãy cầu xin Chúa Jêsus trả giá án phạt cho tội lỗi của bạn.
            Nếu bạn xây khỏi tội lỗi mình và tin cậy nơi Đức Chúa Jêsus Christ, bạn sẽ thấy Đức Chúa Trời tha thứ cho bạn và ưng ban món quà sự sống đời đời cho.
            Tôi nguyện rằng bạn sẽ làm điều đó ngay hôm nay. Amen.



Chủ Nhật, 16 tháng 12, 2012

Tại Sao Đức Chúa Trời Phải Trở Thành Một Con Người



Tại Sao Đức Chúa Trời

Phải Trở Thành Một Con Người

            Tại sao Con Đức Chúa Trời lại muốn trở thành một con người chứ? Điều chi khiến cho Ngài phải rời bỏ cung điện đời đời để bước vào thế gian nầy bị hành hại bởi đau khổ và buồn rầu chứ? Tại sao Ngài từ bỏ sự thờ lạy của hàng thiên sứ để gánh chịu sự ngược đãi nơi tay của con người tội lỗi chứ? Tại sao Đức Chúa Trời phải trở nên một con người? Max Lucado trong quyển “God Came Near”[Đức Chúa Trời đã đến gần], ông đã viết như thế nầy: “Đức Chúa Trời đã đến gần. Ngài đã đến, không phải như một ánh chớp hay như một đấng chinh phục không thể tiếp cận được, mà như một trẻ thơ, cô thiếu nữ nông thôn cùng gã thợ mộc hay ngủ kia đã nghe thấy tiếng khóc của trẻ ấy. Hai bàn tay bồng lấy Ngài trước tiên rất bẩn thỉu, chai sần, móng tay không cắt. Không có lụa là. Không có tháp ngà. Không có quảng cáo thổi phồng. Chẳng có tiệc tùng. Không có tiếng om sòm. Chẳng có ngoại lệ chi hết, mấy gã chăn chiên cũng vậy. Chẳng có quà cáp chi cả, dù là cho những người chuyên nhìn sao trời mà đoán. Các thiên sứ đã quan sát khi Mary thay tả lót cho Đức Chúa Trời. Cả vũ trụ đã kinh ngạc khi nhìn thấy Đấng Toàn Năng chập chững bước đi. Bầy trẻ chơi đùa trên đường phố với Ngài. Và ngay cả cấp lãnh đạo Tòa Công Luận tại thành Naxarét, không biết họ có lắng nghe bài giảng nầy hay không nữa! … có thể Chúa Jêsus có những mụt nhọt. Có thể Ngài trông rất ngớ ngẩn. Có lẽ thiếu nữ ngoài đường phố kia phải lòng Ngài hoặc ngược lại. Có thể hai đầu gối Ngài toàn là xương xẩu. Có một việc chắc chắn: Trong khi Ngài là Trời rất trọn vẹn, Ngài cũng là Người rất trọn vẹn”. Thế thì tại sao Đức Chúa Trời lại trở thành một con người chứ? Câu trả lời không được thấy nơi câu chuyện Giáng Sinh đầu tiên, mà được thấy ở những trang Cựu Ước. Thực vậy, trong Vườn Êđen, Đức Chúa Trời đã tỏ ra chương trình của Ngài, chương trình ấy sẽ giải cứu nhân loại ra khỏi mớ hỗn độn mà họ đã tạo ra. Khi chúng ta đang nhìn thấy chương trình ấy mở ra, chúng ta sẽ khám phá ra chính xác lý do tại sao Đức Chúa Trời lại trở thành một con người.
I. Tìm hiểu mớ hỗn độn kia mà chúng ta đã dấn thân vào (Sáng thế ký 3).
A. Bất tuân với Đức Chúa Trời luôn luôn có những hậu quả tiêu cực.
1. Êva đã đầu hàng sự cám dỗ. Nàng đã hái trái cấm và vì thế đã phạm vào hành động đầu tiên của con người loạn nghịch cùng Đức Chúa Trời. Êva lập tức trao trái cấm cho chồng, và chàng, không chút ngần ngại, đã hiệp với người bạn đời của mình trong hành động bất tuân nầy.
2. Trong khi những hậu quả đầy đủ của tội lỗi người nam và người nữ sẽ bị bày ra qua sách Sáng thế ký và sách lịch sử thế giới, kết quả đầu tiên là phương thức xuyên tạc, trong đó họ bắt đầu nhìn vào bản thân mình và nhìn vào nhau.
3. Sự nhìn biết họ loả lồ giờ đây đã đem họ đến với sự xấu hổ và mong ước muốn che giấu nó. Thình lình tiêu điểm của người nam và người nữ lại nhắm vào chính bản thân họ, chớ không nhắm vào phần việc lao động và canh giữ ngôi vườn nữa.
4. Tội lỗi của người nam người nữ bị phát hiện và bị sửa phạt. Chúng ta nhận ra một trong những hiệu quả của Sự Sa Ngã là khuynh hướng cảm thấy xấu hổ cách xử sự của chúng ta đến nỗi chúng ta tìm cách đỗ thừa trách nhiệm cho người khác về sự xấu hổ đó.
5. Việc từ chối không chấp nhận mọi hậu quả như thế nầy chỉ làm tệ hại hơn cho mối quan hệ đã gãy vỡ với Chúa trong phần còn lại của câu chuyện trong Kinh thánh.
B. Ngay ở giữa sự phán xét, Đức Chúa Trời ban ra một lời đầy hy vọng.
1. Kết quả của tội lỗi và sự sửa phạt của nó là sự bóp méo từng mối quan hệ giữa Giêhôva Đức Chúa Trời và loài thọ tạo của Ngài.
2. Một khi con người phải lo trình sổ về tội lỗi của họ, và một khi họ đã chọn con đường bất tuân, quả là thê thảm cho con người khi họ tiếp cận với trái cấm là thứ sẽ truyền cho người sự sống hay hư nát về phần thuộc thể.
3. Sáng thế ký 3:15 được gọi là Protevangelium, Tin Lành đầu tiên. Lời tiên tri nầy nói về Đấng Mêsi đến trong một chỗ không thích hợp nhất — trong phạm vi lời rủa sả nói với Con Rắn.
4. Ađam bị trục xuất ra khỏi vườn vào trong thế gian cho tới chừng Ađam khác (là Đấng Christ) sẽ đến rồi nhận được quyền dự phần vào cây sự sống  đó.
II. Con người luôn luôn có một nhu cần về sự giải cứu của Đức Chúa Trời (Xuất Êdíptô ký 1-12).
A. Sau khi sang Aicập để tránh cơn đói kém bốn trăm năm trước đó, dân Israel thấy họ đang ở trong tình trạng làm nô lệ.
1. Vả, Giô-sép và anh em người cùng mọi kẻ đồng đời đó đều chết hết. Con cháu Y-sơ-ra-ên thêm nhiều lạ lùng, nẩy nở ra, và trở nên rất cường thạnh; cả xứ đều đầy dẫy. Nhưng bấy giờ tại nước Ê-díp-tô, có một vua mới lên ngôi, chẳng quen biết Giô-sép (Xuất Êdíptô ký 1:6-8).
2. Kết quả là, người Ai cập đã đối đãi với dân Israel một cách nghiệt ngã khi họ đặt những tay đầu xâu trên họ.
3. Bị ngược đãi và nãn lòng, Đức Giêhôva đã nghe thấu tiếng kêu la của dân Israel rồi sai Môise và Arôn đến giải phóng họ.
4. Đức Chúa Trời đã sai một loạt nhiều trận dịch thuyết phục Pharaôn phải để cho dân Israel đi, mặc dầu các trận dịch tác động Pharaôn mau chóng quay trở lại với cái tôi khinh khỉnh của ông ta đề ra bối cảnh cho trận dịch sau cùng.
B. Bài học sau cùng của Đức Chúa Trời ở đây, ấy là sự giải cứu hoàn toàn đòi hỏi huyết của một chiên con không tì không vít.
1. Trước khi ông rời khỏi sự hiện diện của Pharaôn lần sau cùng, Môise đã mô tả từng chi tiết thảm hoạ sắp sửa xảy ra ở trong xứ Aicập. Đức Giêhôva tuyên bố rằng chính mình Ngài sẽ đi ngang qua xứ. Từng người con trưởng trong xứ sẽ ngã chết, kể cả con đầu lòng của bầy gia súc và thậm chí ngay cả kẻ kế tự ngai vàng nữa.  
2. Đêm giải cứu cần phải được tổ chức bởi một sự tưởng niệm đặc biệt được gọi là “Lễ Vượt Qua của Đức Giêhôva”. Lễ Vượt Qua tựu trung quanh việc giết và ăn thịt chiên con; và một lễ bánh không men nữa.
3. Một con chiên con không tì vít phải bị giết, huyết nó phải đuợc bôi trên mày cửa của ngôi nhà, nơi người ta ăn bữa ăn Lễ Vượt Qua.
4. Bằng cách làm theo mọi chỉ dẫn nầy, con đầu lòng của dân Israel sẽ được buông tha.
5. Phương pháp chuộc tội nầy Đức Chúa Trời đã chọn dự đoán sự hy sinh một lần đủ cả của Chiên Con của Đức Chúa Trời hầu đến, là Đấng Mêsi.
III. Giải pháp của Đức Chúa Trời được công bố qua các tiên tri.
A. Một lời tiên tri nhắm vào phẩm chất của Đấng Mêsi (Êsai 9:6-7).
1. Nhiều thế kỷ sau khi Môise và Arôn dẫn dắt dân Israel ra khỏi xứ Aicập, Đức Chúa Trời sai các đấng tiên tri như Êsai đến, ông nói trước mọi phẩm chất của Đấng Mêsi.
2. Vì có một con trẻ sanh cho chúng ta, tức là một con trai ban cho chúng ta; quyền cai trị sẽ nấy trên vai Ngài. Ngài sẽ được xưng là Đấng Lạ lùng, là Đấng Mưu luận, là Đức Chúa Trời Quyền năng, là Cha Đời đời, là Chúa Bình an. Quyền cai trị và sự bình an của Ngài cứ thêm mãi không thôi, ở trên ngôi Đa-vít và trên nước Ngài, đặng làm cho nước bền vững, và lập lên trong sự chánh trực công bình, từ nay cho đến đời đời. Thật, lòng sốt sắng của Đức Giê-hô-va vạn quân sẽ làm nên sự ấy! (Êsai 9:5-6).
3. Ngày vinh hiển được mô tả trong những câu mở đầu của chương sẽ được mở ra bởi sự ra đời của trẻ nam sơ sinh. Êsai đã nhận dạng con trẻ nầy là Con của Đức Chúa Trời, Ngài được phó cho mọi dân trong vai trò đấng giải cứu.
4. Êsai được biết là vị tiên tri nói tới Đấng Mêsi, ông mô tả từng chi tiết thể nào Đấng Mêsi sẽ hoàn tất sự giải cứu dân sự Ngài trong chương 53.
B. Đức Chúa Trời tỏ ra những khúc quanh co trong chương trình của Ngài.
1. Người ta sẽ trông mong rằng vị vua giải cứu lỗi lạc nầy sẽ chào đời trong hoàng tộc tại thành Jerusalem.
2. Tuy nhiên, tiên tri Michê lại tỏ ra đôi điều rất đáng kinh ngạc.
3. Hỡi Bết-lê-hem Ép-ra-ta, ngươi ở trong hàng ngàn Giu-đa là nhỏ lắm, song từ nơi ngươi sẽ ra cho ta một Đấng cai trị trong Y-sơ-ra-ên; gốc tích của Ngài bởi từ đời xưa, từ trước vô cùng (Michê 5:1).
4. Một vì vua khiêm nhường sẽ hạ sanh, một quan án công bình, một Chiên Con làm của lễ, các mô tả nầy từ vị tiên tri không làm chi khác hơn là khuấy đảo niềm hy vọng ở trong lòng của hàng độc giả.
IV. Tìm hiểu giải pháp của Đức Chúa Trời cho nan đề của chúng ta.
A. Đấng Christ là Chiên Con trọn vẹn, là Đấng đã đổ huyết ra đền tội cho chúng ta.
1.Qua ngày sau, Giăng thấy Đức Chúa Jêsus đến cùng mình, thì nói rằng: Kìa, Chiên con của Đức Chúa Trời, là Đấng cất tội lỗi thế gian đi (Giăng 1:29).
2. Mọi sự Lễ Vượt Qua và các tiên tri dự đoán đều đã ứng nghiệm nơi Chúa Jêsus.
3. Huyết của Đấng Christ bôi trên mày cửa lòng của chúng ta khiến cho sự phán xét của Đức Chúa Trời đi ngang qua chúng ta giống như Ngài đã đi ngang qua các gia đình dân Dothái trong xứ Ai cập vậy.
4. Đây là sự ban cho rời rộng đến từ Đức Chúa Trời đã đuợc dự đoán kể từ thời của Ađam.
B. Chiên Con của Đức Chúa Trời ra đời để chịu chết, Ngài là của lễ thay thế cho chúng ta.
1. Đấng Christ không những là Chiên Con Lễ Vượt Qua của chúng ta, mà Ngài còn là Chiên Con của tế lễ của chúng ta nữa, Ngài đã ở trên bàn thờ của đồi Gôgôtha trả giá án phạt cho tội lỗi của chúng ta.
2. Ngài đã vào nơi rất thánh một lần thì đủ hết, không dùng huyết của dê đực và của bò con, nhưng dùng chính huyết mình, mà được sự chuộc tội đời đời. Vì nếu huyết của dê đực bò đực cùng tro bò cái tơ mà người ta rưới trên kẻ ô uế còn làm sạch được phần xác thịt họ và nên thánh thay, huống chi huyết của Đấng Christ, là Đấng nhờ Đức Thánh Linh đời đời, dâng chính mình không tì tích cho Đức Chúa Trời, thì sẽ làm sạch lương tâm anh em khỏi công việc chết, đặng hầu việc Đức Chúa Trời hằng sống, là dường nào! (Hêbơrơ 9:12-14).
3. Chúa Jêsus không ngự xuống từ Thiên Đàng để bày tỏ ra sự trọn lành của Ngài hay để biến đời sống  của chúng ta ra tiện nghi hơn, nhưng để phó chính mình Ngài cho Đức Chúa Trời làm của lễ thay thế cho chúng ta.
4. Đấng Christ, Chiên Con của Đức Chúa Trời đã bảo đảm ơn giải cứu cho chúng ta và ban hiến ơn ấy cho mỗi một người chúng ta như một món quà trong dịp Lễ Giáng Sinh, với tình yêu thương đặt để món quà ấy bên dưới một cây có hình thập tự.
            Một trong những thi sĩ nổi tiếng nhất của Mỹ là Henry Wadsworth Longfellow. Năm 1860 Longfellow sống rất hạnh phúc trong cuộc đời của ông, thưởng thức một sự công nhận rộng khắp, và rất đỗi tự hào qua cuộc bầu cử của Abraham Lincoln mà ông tin cuộc bầu cử ấy đánh dấu sự đắc thắng của tự do và sự chuộc tội cho cả nước. Cuộc Nội Chiến đã khơi mào qua năm sau. Vào ngày 9 tháng 7 năm 1861,  Fanny, vợ của Longfellow, ở gần một cánh cửa sổ rộng mở đang hấp mái tóc của con gái mình, bà sử dụng loại sáp hấp thật nóng. Thình lình chiếc váy của bà bắt lửa và ngọn lửa thiêu đốt bà. Chồng bà, đang ngủ ở phòng kế bên, đã chợt tỉnh giấc do tiếng gào thét của bà. Khi ông tìm cách dập tắt ngọn lửa và cứu lấy sinh mạng vợ mình, ông đã bị bỏng trên mặt và hai bàn tay của ông. Qua ngày sau thì Fanny ngã chết. Những vết bỏng nặng của Longfellow không cho phép ông đến dự đám tang của Fanny. Hàm râu trắng của ông, là thứ giúp nhận ra ông, là một trong những hậu quả của tai hoạ – những vết sẹo bỏng trên gương mặt ông khiến cho việc cạo râu không còn khả thi được nữa. Trong nhật ký của ông về Lễ Giáng Sinh năm 1861, ông viết: “kỳ lễ đáng buồn thay”. Vào năm 1862, số người chết trận bắt đầu tăng lên và nhật ký ông năm đó, Longfellow đã viết về Lễ Giáng Sinh “Trẻ con nói Chúc Mừng Giáng Sinh, song đối với tôi thì chẳng phải mừng gì cả”. Qua năm 1863, con trai ông không ở trong quân đội Liên Hiệp nữa, anh ta bị thương nặng rồi trở về nhà vào tháng 12. Chẳng có mục nào nhập vào quyển nhật ký của Longfellow về Lễ Giáng Sinh năm ấy. Thế nhưng, vào ngày Lễ Giáng Sinh năm 1864 – ở tuổi 57 – Longfellow đã ngồi xuống tìm cách bắt lấy, nếu có thể được, niềm vui của mùa lễ. Ông khởi sự: tôi có nghe thấy tiếng chuông gióng lên về ngày Lễ mừng Chúa Giáng Sinh. Nhiều bài ca quen thuộc xưa của họ được hát lên, Và lời ca du dương cứ nhắc đi nhắc lại: Bình an trên đất, ân trạch cho loài người. Khi ông đến khổ thứ ba, ông phải dừng lại do tư tưởng về tình trạng xứ sở yêu dấu của ông. Trận đánh ở Gettysburg chưa qua lâu. Có nhiều ngày dường tối tăm, và có lẽ ông đã tự hỏi mình câu: “Làm sao tôi viết được về bình an trên đất, ân trạch cho loài người trong cái xứ sở đang bị chiến tranh xâu xé như thế nầy chứ, ở đó anh em và cha con đánh nhau?” Nhưng ông vẫn cứ viết: – và ông đã viết ra điều gì vậy? Rồi trong nỗi thất vọng, tôi cúi đầu mình xuống, tôi nói: “Chẳng có bình an ở trên đất”, Vì thù hận rất là mạnh bạo, nó chế giễu bài ca Bình an trên đất, ân trạch cho loài người. Dường như ông đã viết cho loại ngày tháng của chúng ta vậy. Thế rồi, như mọi người trong chúng ta sẽ làm, ông hướng mọi tư tưởng của mình đến Đấng ban ra lẽ thật và sự bình an trọn vẹn, và tiếp tục viết: Hãy gióng cho tiếng chuông ngân thật dài: “Đức Chúa Trời không chết mất đâu, Ngài cũng không say ngủ nữa! Sai lầm rồi sẽ thất bại thôi, đúng đắn rồi sẽ thắng hơn, với bình an trên đất, ân trạch cho loài người”. Và lời lẽ đó biến thành bài ca Giáng Sinh bất hủ “I Heard the Bells on Christmas Day” [Tôi nghe tiếng chuông ngân trong ngày Lễ Giáng Sinh].



Thứ Tư, 12 tháng 12, 2012

Luca 2:8-20: "Kìa, Thiên Binh Cùng Nhau Trổi Hát"




Kìa, Thiên Binh Cùng Nhau Trổi Hát

Luca 2:8-20
Phần giới thiệu:
            Phân đoạn Kinh thánh Luca chương 2 là một phân đoạn rất quen thuộc. Ngay cả những người chưa bao giờ mở quyển Kinh thánh ra cũng đã có cơ hội nghe phân đoạn ấy trong Lễ Giáng Sinh đặc biệt của Charley Brown, ở đó Linus giải thích ý nghĩa thật của Lễ Giáng Sinh bằng cách đọc mấy câu Kinh thánh đó.
            Các bài ca Giáng Sinh chúng ta đã hát hôm nay cũng rất quen thuộc với hầu hết mọi người. Hầu hết chúng ta đều ca lên những bài hát ấy ít nhất mỗi năm một lần – thường là vào tháng 12 vì một lý do nào đó … Thực vậy, có rất nhiều bài hát Giáng Sinh trở nên quen thuộc đến nỗi chúng ta hát chúng mà thực sự chẳng cần nghe những gì chúng ta hát. Vì vậy, trong mấy tuần lễ tới đây, tôi sẽ nhắm vào mặt thần học của một số bài hát Giáng Sinh quen thuộc. Hôm nay, chúng ta sẽ nhìn vào bài KÌA! THIÊN BINH CÙNG NHAU TRỔI HÁT.
            Giai điệu của bài ca cổ điển nầy đã được viết ra bởi Felix Mendelssohn vào năm 1840. Lời nhạc thì do Charles Wesley viết. Charles cùng em mình là John Wesley là những nhà tiên phong trong Hội thánh Methodist. Trong suốt quảng đời của ông, Charles Wesley đã viết hơn 6.500 bài thánh ca. Phân đoạn Kinh thánh nầy, -- cùng với “Chúa Jêsus, Đấng Yêu thương linh hồn tôi” – được xem là lời thánh ca hay nhất mà Wesley đã viết.
            Và thực vậy, KÌA! THIÊN BINH CÙNG NHAU TRỔI HÁT đôi khi được đặt tên là bài thánh ca được hát nhiều nhất trong những nơi dùng Anh ngữ.
            Bài thánh ca của ông chiếu theo Kinh thánh từ Luca chương 2, ở đây các thiên sứ đã hiện ra cùng mấy gã chăn chiên. Câu đầu tiên nhắm vào LỜI CÔNG BỐ CHÚA GIÁNG SINH có một không hai nầy.
1. Khổ thứ nhứt nhắm vào LỜI CÔNG BỐ CHÚA GIÁNG SINH
            “Kìa, thiên binh cùng vang tiếng hát, chúc Thánh Đế mới sanh trên đất! Bình an ân trạch ban khắp cả, Chúa và người đôi bên thuận hoà. Khắp đất hát: Halêlugia! Suốt cả cõi trời cũng hoan ca. Các sứ thánh huyên ca giọng êm, mừng Christ giáng tại Bếtlêhem. Khá chú ý khúc ca diệu thay: Vinh hiển bấy Christ hạ sanh rày”.
            Hãy cùng xem xét với tôi, có hai hạng nhân vật được chỉ rõ trong khổ thứ nhứt nầy: Thiên sứ và mấy gã chăn chiên.

THIÊN SỨ
            Thật là thích ứng cho sự ra đời quan trọng nhất nầy được loan báo bởi các Linh Siêu Nhiên. Tôi đã nhìn thấy nhiều mô tả về đạo binh thiên sứ, nhưng tôi e chẳng biết có mô tả nào trong số đó là chính xác hay không nữa. Chỉ có mấy gã chăn chiên mới có thể tô vẽ một bức hoạ chính xác … song họ lại là những gã chăn chiên, chớ không phải hoạ sĩ.
            Kinh thánh có nhiều chỗ nói tới các thiên sứ. Thực vậy, các thiên sứ được nhắc tới 108 lần trong Cựu Ước và 165 lần trong Tân Ước – Cách thức Kinh thánh phác hoạ thiên sứ rất khác biệt so với những quan niệm thông thường nói tới các tạo vật giống cái với khuôn mặt xinh xắn, các quầng hào quang, cùng đôi cánh mỏng mảnh kia.
            Đây là phác hoạ theo Kinh thánh về thiên sứ:
+ Họ là thể Linh, được dựng nên trước cả nhân loại. Họ cao hơn hữu thể con người một chút với quyền phép cao hơn năng lực của con người. Họ có thể hiện ra và biến mất trong giây lát.
+ Các hữu thể nầy phục vụ và thờ lạy Đức Chúa Trời một cách tình nguyện. Chúng ta biết điều nầy vì một trong các thiên sứ quyền lực và sáng láng nhất – là Lucifer – đã nổi loạn chống nghịch Đức Chúa Trời và lãnh đạo một đoàn đông thiên sứ và chúng đã trở thành thứ mà chúng ta gọi là Ma Quỉ.
+ Thiên sứ có thể hiện ra cùng hữu thể con người bằng nhiều hình thức khác nhau.
> Êsai đã mô tả họ có sáu cánh và đang bay.
> Ở một vài cơ hội, họ đã hiện ra là những Linh thật sáng láng. Thực vậy, gần như là họ luôn luôn gây ra sự kinh sợ, cho nên lời nói đầu tiên của họ đều là “đừng sợ…”
> Có khi họ hiện ra như hạng người bình thường. Thực vậy, sách Hêbơrơ mô tả thiên sứ trông giống rất nhiều với con người đến nỗi con người giao tiếp với họ mà chẳng nhận ra lai lịch siêu nhiên của họ.
            Các thiên sứ thuờng được sai đi trong vai trò sứ giả của Đức Chúa Trời, và các tin tức họ loan báo thường là tốt lành. Trong trường hợp nầy, thì còn hơn là tốt lành nữa. Đây là những tin tức quan trọng nhất từng được rao báo. Chúng ta không biết có bao nhiêu thiên sứ hiện diện trong ca đoàn đêm hôm ấy. Song Kinh thánh chép số lượng các thiên sứ là:vô số thiên sứ; thiên sứ hàng muôn hàng ngàn (Khải huyền 5:11). Còn Luca chép đây là “muôn vàn thiên binh với thiên sứ”.
            Đối với mấy gã chăn chiên, đấy quả là một bối cảnh đáng kinh ngạc. Nhưng các thiên sứ đã cảm thấy như LỜI LOAN BÁO CHÚA RA ĐỜI nầy được loan ra chưa đúng mức. Rốt lại, đây là biến cố quan trọng nhất trong mọi biến cố của lịch sử con người. Như khổ thứ nhứt nói, Con Trẻ nầy đã đến để đem sự bình an cùng ân trạch khắp đất. Sau cùng, cái điều khả thi, ấy là Đức Chúa Trời và tội nhân phục hoà lại với nhau. Không có gì phải ngạc nhiên khi Wesley hô toáng lên: “Khắp đất hát;…suốt cả cõi trời cũng hoan ca. Các sứ thánh huyên ca giọng êm, mừng Christ giáng tại Bếtlêhem”.
            Các thiên sứ đã lấy làm kinh ngạc không biết lý do tại sao những Tin Tức Tốt Lành nầy không được loan báo cho các dân của cả thế gian biết. Tại sao Đức Chúa Trời không đính kèm lời loan báo với bối cảnh rộng khắp cả thế giới như sấm sét, mưa sao băng – có thể nguyệt thực và một vụ nổ núi lửa thật hoành tráng … bất cứ điều chi khiến cho cả thế gian phải chú ý đến!
            Thay vì thế, Đức Chúa Cha lại sai phái một Ca Đoàn ở trên trời đến loan báo SỰ RA ĐỜI của CON NGÀI cho mấy gã chăn chiên tạp ở trong một cánh đồng mông quạnh. Chẳng có ai làm một việc gì theo cách ấy cả! Sự thể giống như Hoàng Gia Anh Quốc phái các sứ giả đến loan báo sự ra đời con trai đầu lòng của Thái Tử Charles cho một nhóm những gã khuân vác ngoài bến cảng đang tải hàng hoá lên boong tàu … hay mời một vài gã tài xế taxi ở Luân đôn đến chiêm ngưỡng con trẻ của hoàng gia.

MẤY GÃ CHĂN CHIÊN
            Vì vậy, mấy gã chăn chiên nầy là ai mà lại đáng được một vinh dự như thế chứ? Đúng, họ là những con người thuộc giai cấp lao động phổ thông đấy thôi. Và họ CHẲNG LÀM GÌ để đáng được vinh dự đó. Thực vậy, đấy là toàn bộ quan điểm.
            Chúa Jêsus đã đến để cứu hạng người thông thường, lao động hàng ngày. Chúng ta có thể đồng hoá với mấy gã chăn chiên vì họ sống giống như bạn và tôi. Không một ai trong chúng ta xứng đáng với sự Bình An Trên Đất mà Chúa Jêsus đang hiến cho. Chúng ta là hạng tội nhân chẳng xứng đáng được phục hoà lại với Đức Chúa Trời. Nhưng chính với CHÚNG TA – những gã “Joe” bình thường --- mà Những Tin Tức Tốt Lành nầy đã được loan ra.
            Bài ca Giáng Sinh nầy làm nhiều việc hơn là chỉ nói tới sự ra đời của Chúa Jêsus. Giống như bất kỳ bài thánh ca nào của Charles Wesley, phân đoạn Kinh thánh nầy thực sự là một course học cô đọng về Giáo Lý Kinh thánh theo thể thi ca.
            Khổ thứ nhứt loan báo sự ra đời của Chúa Jêsus. Câu thứ hai thuật lại về JÊSUS LÀ AI.
2. Khổ thứ hai nhấn mạnh JÊSUS LÀ AI
            “Kìa, thiên binh thờ vua chánh ngôi, Cứu Chúa Christ vĩnh sanh vô đối! Đồng trinh xưa hoài thai Thánh Tử, Đấng loài người  bao năm đợi chờ. Dẫu Chúa có hình thể như ta, vẫn chiếu sáng thần tánh như Cha. Kẻ tiếp Chúa, Chúa luôn ngự bên, thật rõ Chúa Emmanuên. Khá chú ý khúc ca diệu thay: Vinh hiển bất Christ hạ sanh rày”.
            Charles Wesley chủ ý gói ghém bốn lẽ thật quan trọng về lai lịch Chúa Jêsus vào trong một câu ngắn ngủi nầy. Nếu chúng ta dừng lại để nhìn vào từng mệnh đề một, thì giống như mình đang từ từ bước vào course học về lẽ đạo Đấng Christ vậy.
THẦN TÁNH của Ngài: “Kìa, thiên binh thờ vua chánh ngôi, Cứu Chúa Christ vĩnh sanh vô đối!”
            Giăng 1:1 chép:Ban đầu có Ngôi Lời, Ngôi Lời ở cùng Đức Chúa Trời, và Ngôi Lời là Đức Chúa Trời.
SỰ RA ĐỜI BỞI NỮ ĐỒNG TRINH của Ngài -- Đồng trinh xưa hoài thai Thánh Tử, Đấng loài người  bao năm đợi chờ”. Êsai 7:14 nói trước: Vậy nên, chính Chúa sẽ ban một điềm cho các ngươi: nầy một gái đồng trinh sẽ chịu thai, sanh ra một trai, và đặt tên là Em-ma-nu-ên.
SỰ HOÁ THÂN THÀNH NHỤC THỂ của Ngài – “Dẫu Chúa có hình thể như ta, vẫn chiếu sáng thần tánh như Cha”. Ở Giăng 1:14, chúng ta đọc: Ngôi Lời đã trở nên xác thịt, ở giữa chúng ta, đầy ơn và lẽ thật; chúng ta đã ngắm xem sự vinh hiển của Ngài, thật như vinh hiển của Con một đến từ nơi Cha.
NHÂN TÁNH của Ngài – “Kẻ tiếp Chúa, Chúa luôn ngự bên, thật rõ Chúa Emmanuên”. Hêbơrơ 4:15 cho chúng ta biết:
Vì chúng ta không có thầy tế lễ thượng phẩm chẳng có thể cảm thương sự yếu đuối chúng ta, bèn có một thầy tế lễ bị thử thách trong mọi việc cũng như chúng ta, song chẳng phạm tội.
            Charles Wesley thực sự gói ghém toàn bộ vào một vài dòng mà chúng ta vừa hát; chỉ cho chúng ta thấy mọi sự Chúa Jêsus vừa là Trời mà cũng vừa là Người rất là trọn vẹn.
            Hãy lắng nghe mọi điều mà một tác giả Thánh Ca người Anh có tên là Eric Routley đã viết về thánh ca của Wesley: “Những bài thánh ca nầy đã đuợc sáng tác để những người nam người nữ có thể hát theo cách của họ, không những ở kinh nghiệm, mà còn ở sự hiểu biết nữa; -- kẻ có học sẽ dầm thấm văn hoá của họ, còn kẻ dốt nát sẽ được dẫn vào trong lẽ thật bởi bàn tay dịu dàng của cung điệu và giai điệu”.
            Khổ sau cùng cung ứng một nền thần học nói tới mọi điều mà Chúa Jêsus đã đến để làm cho chúng ta. Bộ môn nầy được gọi là Thần Học Về Chúa Jêsus Đấng Cứu Thế, nghiên cứu về sự cứu rỗi.
3. Khổ thứ ba dạy MỌI ĐIỀU CHÚA JÊSUS HIẾN CHO
            “Tụng ca Vua Bình An đến kia, hát chúc ánh thái dương công nghĩa. Ngài đem theo Thần Quang vĩnh sanh, phép trị bịnh do tay nhơn lành. Chúa gác bỏ quyền quí thiên cung, xuống để cứu người thoát nguy vong. Xuống để vớt ai đương lầm than, được trùng sanh, phục hồi vinh quang. Khá chú ý khúc ca diệu thay, vinh hiển bấy Christ hạ sanh rày”.
• Chúa Jêsus đem theo SỰ SÁNGSỰ SỐNG: “Ngài đem theo Thần Quang vĩnh sanh…”. Giăng 1:4 chép về Chúa Jêsus: Trong Ngài có sự sống, sự sống là sự sáng của loài người. Có người tin rằng người nào đi theo Chúa Jêsus sẽ bị đàn áp, bị chèn ép, và khốn khổ. Không một điều gì có thể xa rời đối với sự thật. Sự sống thật được tìm thấy chỉ ở nơi Ngài. Và Chúa Jêsus rải ánh sáng ra trên những vấn đề quan trọng nhất của cuộc sống. Lời của Ngài thực sự là thứ ánh sáng dẫn chúng ta vào trong một cuộc sống đầy dẫy.
• > Chúa Jêsus đem lại SỰ CHỮA LÀNH: “phép trị bịnh do tay nhơn lành”. I Phierơ 2:23 giải thích: Ngài gánh tội lỗi chúng ta trong thân thể Ngài trên cây gỗ, hầu cho chúng ta là kẻ đã chết về tội lỗi, được sống cho sự công bình; lại nhân những lằn đòn của Ngài mà anh em đã được lành bịnh”.
• > Chúa Jêsus đem lại SỰ THẮNG HƠN SỰ CHẾT: “Chúa gác bỏ quyền quí thiên cung, xuống để cứu người thoát nguy vong. Xuống để vớt ai đương lầm than, được trùng sanh, phục hồi vinh quang”.
            I Côrinhtô 15:54-57: Khi nào thể hay hư nát nầy mặc lấy sự không hay hư nát, thể hay chết nầy mặc lấy sự không hay chết, thì được ứng nghiệm lời Kinh Thánh rằng: Sự chết đã bị nuốt mất trong sự thắng. Hỡi sự chết, sự thắng của mầy ở đâu? Hỡi sự chết, cái nọc của mầy ở đâu? Cái nọc sự chết là tội lỗi, sức mạnh tội lỗi là luật pháp. Nhưng, tạ ơn Đức Chúa Trời đã cho chúng ta sự thắng, nhờ Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta.
            Susan và tôi đã kinh nghiệm chỗ khác biệt mà SỰ THẮNG HƠN SỰ CHẾT nầy thực hiện cho một gia đình trong tuần nầy khi chúng tôi nhóm lại với gia đình của cô ấy bên mộ địa của anh cô ấy là Jamey. Sự chết thật là bi thảm. Thế nhưng gia đình không buồn rầu với thất vọng và vô vọng đâu. Đã có sự vui mừng trong sự hiểu biết rằng Đức Chúa Jêsus Christ đã thắng hơn sự chết, và một đời sống tốt hơn đang chờ đợi hết thảy chúng ta, những ai chịu tin theo Ngài.
            Khi Chúa Jêsus bước vào thế gian, mọi sự đà thay đổi. SỰ SỐNGSỰ SÁNG đã đến với một thế giới tăm tối. SỰ CHẾT đã bị nuốt mất trong sự thắng.
            Một người có tên là Ralph Stockman trình bày theo cách nầy: “Cái bản lề của lịch sử đang ở trên cánh cửa của chuồng chiên Bếtlêhem”.
Phần kết luận:
            Trong phần kết luận, tôi muốn nhìn vào hai từ xưa cũ mà chúng ta nhìn thấy trong bài ca Giáng Sinh nầy. Chúng ta không nên kinh ngạc khi thấy có một số cách nói xa xưa trong bài thánh ca nầy. Rốt lại, Charles Wesley đã sống vào thập niên 1800. Từ ngữ ông sử dụng dường như chẳng có gì lạ lùng cho các ca sĩ vào thời ấy. Nhưng mặc dầu chúng ta không sử dụng các từ ngữ nầy trong cách ăn nói hàng ngày, ý nghĩa của chúng rất gắn bó với đời sống của chúng ta.
            Hãy nhìn vào từ ngữ thứ nhứt trong bài ca nầy. Nó nhảy đại vào bạn: “Kìa!” Chữ nầy ý nói HÃY CHÚ Ý ĐÂY, hay HÃY LẮNG NGHE ĐÂY! “Kìa!” là một từ ngữ bạn hô lên để bắt lấy sự chú ý của mọi người. Bài ca có thể khởi sự với cụm từ: NÈ, BẠN ƠI! Nhưng nói như thế thì chẳng có gì là thi ca cả. Chúa Jêsus thường phán: “Ai có tai để nghe, hãy nghe”. Chẳng có ích lợi gì cho Đức Chúa Trời khi phán dạy nếu chúng ta không chịu nghe.
            Sứ điệp nói tới sự cứu rỗi đã được loan ra: Chúa Jêsus đã đến. Ơn cứu rỗi thuộc về bạn nếu bạn muốn có nó. Và việc đầu tiên chúng ta cần phải làm được mô tả bằng một từ đó: “Kìa!” Có phải bạn đang nghe theo tiếng phán của Đức Thánh Linh hôm nay chăng?
            Từ ngữ thứ hai là “tụng ca”. Từ ngữ ấy có ý nói tung hô, chào đón, công nhận. Bài ca chép: “Tụng ca Vua Bình An đến kia, hát chúc ánh thái dương công nghĩa”.
            Tụng ca là dâng lên sự thờ phượng thích đáng với Đấng đem lại cho chúng ta sự sáng, sự sống, sự chữa lành, và ơn cứu rỗi đời đời.
            Hôm nay, bạn có chịu nghe Lời lẽ của Ngài và tụng ca Ngài là Vua và Cứu Chúa CỦA BẠN không?
            “Kìa, thiên binh cùng vang tiếng hát, chúc Thánh Đế mới sanh trên đất!”