Thứ Ba, 18 tháng 10, 2011

BÀI CA CỦA XACHARI




BÀI CA CỦA XACHARI
Mục sư Ed Sasnett

Luca 1:67-79


Lẽ thật: Lễ Giáng Sinh nhắm vào việc ngợi khen Đức Chúa Trời và tuyên bố rằng sau cùng Đấng Cứu Thế đã đến.
Mục đích: Noi theo gương của Giăng sử dụng lễ Giáng sinh để chỉ Chúa Jêsus cho người ta.
Sống đạo: Gương của Giăng chỉ Chúa Jêsus cho người ta như thế nào?
Phần giới thiệu:
Isaac Watts là một thiên tài. Khi được 4 tuổi, ông đã học tiếng Latinh, 9 tuổi thì học tiếng Hylạp, 11 tuổi học tiếng Pháp, và 13 tuổi học tiếng Hybálai. Ông viết các Thi thiên lại theo thể thơ ca rất là tráng lệ. Không may cho Isaac đáng thương, ông không phải là người dễ nhìn. Cơ hội duy nhứt của ông trong tình yêu đã đến rồi đi với một thiếu nữ tên là Elizabeth, nàng đem lòng yêu Watts qua các bài thơ mà ông đã cho in ấn. Thế nên Elizabeth muốn lấy ông, là người sáng tác thật tình cảm sâu sắc đến nỗi nàng đã cứ chạy theo chiều gió và nhơn một bức thư yêu cầu ông cưới nàng.
Nhưng vào lúc sau cùng họ gặp nhau, nàng đã rút lại lời khẩn cầu của mình. Về sau, nàng viết rằng Isaac Watts chỉ là “một người cao có 5 feet, với gương mặt tẹt, mũi khoằm, xương gò má nhô cao, mắt ti hí, và màu da giống như chết rồi vậy … Tôi trầm trồ món nữ trang nhưng không mê nổi cái hộp đựng nó”.
Isaac không bao giờ lập gia đình, nhưng ông sử dụng đời sống độc thân của mình nhắm vào sự vinh hiển của Đức Chúa Trời. Vào năm 1719, Watts đã cho in tác phẩm thơ ca của mình dựa theo Thi thiên 98 mà nhiều người đã xem đấy là bài thánh ca Giáng Sinh bất hủ trong mọi thời đại: “Phước Cho Nhân Loại” (Lloyd Stilley, Lifeway).
Nhạc điệu hay luôn luôn gắn bó với Lễ Giáng Sinh. Chúng ta quá quen thuộc với truyện tích Giáng Sinh: thiên sứ, mấy gã chăn chiên, nữ đồng trinh và con trẻ. Nhưng chúng ta có quen thuộc với những bài ca trong Kinh thánh nói tới Chúa Giáng Sinh không? Các biến cố trong Lễ Giáng Sinh kỳ diệu đến nỗi nó kết quả trong một sự bùng nổ ra việc ca hát mô tả cái chạm của Con Trẻ nầy sẽ có trên thế giới của tội nhân.
Những bài hát đến rồi đi; nhưng có bốn bài ca nói tới Chúa Giáng Sinh cứ còn mãi trong 2.000 năm. Xachari, cha của Giăng Báptít, đã sáng tác bài ca đầu tiên trên danh sách bài hát Giáng Sinh của chúng ta. Theo tiếng Latinh, bài ca được đặt tên là “Benedictus” {bài ca tụng} theo lời đầu tiên trong bài hát ấy. Phân đoạn Kinh thánh được thấy ở Luca 1:67-80.
Bối cảnh của món trang sức nầy sẽ khiến chúng ta lấy làm kỳ diệu nơi vẻ đẹp của nó. Trong câu 5, Kinh thánh cho chúng ta biết rằng Xachari là một thầy tế lễ đã lấy con gái của một thầy tế lễ làm vợ. Điều nầy được xem là trường hợp hiếm có và tuyệt vời đối với một thầy tế lễ. Cả hai người đều dâng mình cho Đức Chúa Trời. Bạn có thể tưởng tượng phần tương lai kỳ diệu mà nhiều người đã lường trước cho đôi vợ chồng nhơn đức và tin kính nầy. Tôi dám chắc chén rượu mừng cưới bao gồm cả ơn phước có nhiều con cái cho họ, và có thể một trong những đứa con của họ đó sẽ trở thành Đấng Mêsi được sai đến để giải phóng cho dân sự của Đức Chúa Trời.
Đấy là giấc mơ của mọi cặp tân hôn trong xứ Israel. Từng cô dâu người Do thái đã được dạy dỗ phải có một gia đình lớn vì người con trai sẽ là Đấng Mêsi, Đấng Giải Cứu Israel được sai đến từ trời. Nếu có bất kỳ đôi vợ chồng nào đủ tư cách làm công cụ con người của lời hứa ấy, thì đó là Xachari và Êlisabết.
Câu 7 nói ra sự thực rất đơn sơ và không có chút tình cảm nào hết, song chẳng phạm lỗi gì hết một khi nó đầy dẫy với đau khổ. Họ không có con vì Êlisabết son sẻ. Nếu bạn có thể suy nghĩ đến vấn đề gia đình và văn hóa mà xã hội của chúng ta giải thích một khi Đức Chúa Trời bỏ quên bạn hay đang sửa phạt bạn, khi ấy bạn sẽ biết đôi điều về cách thức mà Xachari và Êlisabết đã cảm nhận. Nếu bạn từng ao ước một điều gì đó nhưng ước ao của bạn biến thành thất vọng rồi thất vọng ấy trở thành vô vọng và sự vô vọng đó trở thành sự chấp nhận miễn cưỡng, lúc đó bạn nhìn biết những gì đã tiếp diễn trong tấm lòng của đôi vợ chồng nầy.
Một đặc ân lớn đến cho thầy tế lễ nầy. Ông được chọn vào phục vụ trong đền thờ. Có nhiều thầy tế lễ đến, họ rút thăm quyết định xem ai là người được phục vụ trong đền thờ. Không những Xachari được phục vụ, mà ông còn được ấn định phải dâng hương nữa, đây là một đặc ân cả đời chỉ có một lần mà thôi. Nếu bạn được chọn, khi ấy tên của bạn sẽ bị dời đi ra khỏi sự cạnh tranh trong tương lai để người khác sẽ có đặc ân ấy. Ông đã dâng hướng nầy ở trước bức màn phân cách Nơi Thánh và Nơi Chí Thánh. Chỉ có Thầy Tế Lễ Thượng Phẩm mới được vào trong Nơi Chí Thánh mà thôi, và mỗi năm một lần. Truyền khẩu Do thái mô tả thầy tế lễ nào dự phần dâng hương nầy đều “giàu có và thánh khiết” trong phần đời của lại của họ.
Chính ở đây mà Xachari gặp gỡ thiên sứ và các tin tức cho biết người vợ cao tuổi của ông sẽ có thai. Bà sẽ sanh ra người tiền khu của Đấng Mêsi. Mặc dù thiên sứ đã đến thẳng từ sự hiện diện của Đức Chúa Trời, và có một số tiền lệ trong Kinh thánh về phụ nữ cao tuổi sanh con trai, Xachari hồ nghi Đức Chúa Trời không thể làm được việc nầy. Thiên sứ bảo đảm với ông việc nầy sẽ xảy ra và là một dấu để minh chứng cho phép lạ nầy, Xachari sẽ không thể nói được cho tới chừng con trẻ ra đời. Thà là Xachari không nói gì được còn hơn là ban ra một sứ điệp giả dối nói về chương trình cứu rỗi của Đức Chúa Trời.
Sau khi nghe câu chuyện nầy, một người nói với vị Mục sư của mình khi ông ta rời khỏi buổi thờ phượng rằng vợ ông ta sẽ có thai. Vị Mục sư trông bối rối lắm. Ông ta giải thích rằng bà nhà đã không nghe thấy một lời mà ông đã nói trong một thời gian dài.
Lần tới Xachari nói ra tên của con trai mình phải là Giăng y như thiên sứ đã căn dặn. Khi ông bồng con trẻ trên tay mình, ông thốt ra một bài ca ngợi khen Đức Chúa Trời. Bài thánh ca có thể được chia thành hai khổ. Khổ thứ nhứt là ngợi khen Đức Chúa Trời (các câu 68-75). Khổ thứ hai là nói tiên tri về Đức Chúa Trời (các câu 76-79). Mỗi dòng của bài ca tôn vinh nầy kỷ niệm Đức Chúa Trời sau cùng đã đến để chuộc lấy dân sự Ngài. Lễ Giáng Sinh nói tới sự ngợi khen Đức Chúa Trời và công bố sau cùng Đấng Cứu Thế đã ngự đến.
Nếu Lễ Giáng Sinh nói tới sự ngợi khen Đức Chúa Trời và công bố Đấng Cứu Thế đã ngự đến, thì Giăng Báptít thực hiện điều nầy như thế nào? Có điều gì được dặn dò về trường hợp của ông không? Giăng ngợi khen Đức Chúa Trời và tuyên bố Chúa Jêsus là Cứu Chúa từ lâu ai nấy mong đợi như thế nào?
I. LỜI CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI PHẢI TỄ TRỊ CHÚNG TA.
Giăng được gọi là tiên tri ở câu 76. Tiên tri là gì chứ? Một tiên tri đã được mô tả là một người loan báo trước và là một người tiên đoán trước. Một người tiên đoán trước là người nói trước các sự kiện trong tương lai. Sứ điệp của vị tiên tri thường bao gồm việc mô tả các sự kiện còn trong tương lai mà Đức Chúa Trời sẽ bày ra. Thực vậy, theo Phục truyền luật lệ ký 13, một sự kiện còn trong tương lai trở nên hiện thực quyết định vị tiên tri có đến từ Đức Chúa Trời hay không!?! Việc tiên đoán nầy được thấy ở các câu 67-75. Các vị tiên tri đã loan báo trước Đấng Cứu Chuộc khác giống như Môise sẽ đến và dẫn dắt dân sự trong việc thoát ra khỏi ách nô lệ mà vào trong sự tự do. Ngài sẽ là dòng dõi đầy quyền lực của Vua David sẽ đánh bại mọi kẻ thù và tỏ ra ơn thương xót cho những người tin theo.
Nhưng vị tiên tri ai cũng biết là người nói ra sứ điệp của Đức Chúa Trời cách đơn sơ, rõ ràng cho dân sự. Ông là một người loan báo trước. Đây sẽ là vai trò của Giăng. Ông sẽ nói cách đơn giản với dân sự rằng Đấng Giải Cứu của Đức Chúa Trời đã ngự đến, và họ cần phải sửa soạn tấm lòng của họ để tiếp nhận Ngài bằng cách ăn năn tội. Ngài sẽ dạy dỗ họ về ơn cứu rỗi và phương thức làm hòa lại với Đức Chúa Trời.
Một nguyên nhân cho sự ngợi khen của Xachari, ấy là rốt lại, sau 400 năm im lặng, người ta được nghe vị tiên tri của Đức Chúa Trời nói Lời của Đức Chúa Trời. Ở Luca 7 Chúa Jêsus phán rằng việc loan báo trước là đặc điểm quan trọng của Giăng. Ngài đã hỏi dân chúng lý do tại sao họ vào trong đồng vắng để nghe Giăng rao giảng? Có phải họ ra đó vì họ tưởng ông ấy là một cây sậy chăng? Một cây sậy cứ đu đưa theo luồng gió thổi. Có phải đấy là cách mà họ nghĩ về Giăng chăng? Có phải họ nghĩ ông không có xương sống không? Có phải họ nghĩ ông đã rao giảng bất cứ điều chi hợp ý dân sự không? Không, ông đã rao giảng Lời của Đức Chúa Trời.
Có phải họ nghĩ rằng ông sẽ mặc loại áo choàng của hoàng gia và được ơn không? Có phải họ nghĩ ông là một người thích chưng diện, một người rất ôn hòa và nhượng bộ trước những ham muốn của tư dục mình? Không. Họ ra đó vì ông là một vị tiên tri sống theo Lời của Đức Chúa Trời. Ông là một người không bị dư luận quần chúng hay những ham muốn tư dục quản trị mình, nhưng Lời của Đức Chúa Trời tể trị trong lý trí và lương tâm của ông.
Giả sử bạn gặp rắc rối trong đêm và bạn không thể leo lên lầu với hơi thở đứt đoạn. Bạn lấy làm lo và thực hiện cuộc hẹn với bác sĩ tim mạch. Ông ta thực hiện ngay một số xét nghiệm và quần quật trong ba phút xét nghiệm giống như một phương pháp hành hình được sử dụng cho kẻ khủng bố Hồi giáo. Một tuần sau bạn có mặt trong văn phòng của bác sĩ và ông ta có một cái nhìn khá gay gắt trên gương mặt của ông ta.
Vị bác sĩ nói: “Ở một cấp độ từ 1 đến 10, 10 là bối cảnh tệ hại nhất, ông đang ở vị trí số 7. Ông không cần giải phẩu trong lúc nầy, nhưng ông phải thực hiện một số thay đổi trong lối sống hoặc giả…”.
Ông ta hỏi: “Hoặc sao chứ ạ?”
Vị bác sĩ rút trong tập hồ sơ ra một tờ giấy rồi trao nó cho ông ta. “Ông phải tập ba ngày một tuần. Sau khi cơ thể ông được điều chỉnh hẳn hòi rồi, chúng tôi sẽ tăng thêm lượng bài tập có cần”.
Ông ta than phiền: “Nhưng bác sĩ ơi, ông không hiểu đâu”. “Tôi có một quả tim không được tốt. Ông đã xét nghiệm minh chứng điều đó. Nếu như tôi nhận được một quả tim mạnh hơn, khi ấy tôi có thể khởi sự tập luyện. Ông không thể mong tôi thực hiện việc nầy với tình trạng của tôi hiện nay”.
Vị bác sĩ trông bối rối lắm, vì vậy ông ta tiếp tục nói: “Ông nói ông muốn tôi tập luyện một ngày 30 phút, một tuần ba lần. Tôi sẽ thấy mình sập sình giống như chiếc xe lửa chở hàng hóa và đổ mồ hôi giống như con heo vậy. Tôi sẽ cau có trong nhiều ngày. Tôi không thể làm việc nầy đâu. Nào, hãy điều chỉnh lại quả tim của tôi đi, và khi ấy tôi mới nghĩ đến các bài tập nầy”.
Vị bác sĩ nói: “Tôi đang ra sức điều chỉnh trái tim của ông. Đây là cách ông điều chỉnh nó: bằng cách tập luyện nó. Cái điều bất tiện chính là một phần của sự chữa lành. Bằng cách thử thách quả tim và rồi để nó nghỉ ngơi, nó sẽ ngày càng mạnh mẽ và khỏi hẳn ra”.
Bạn nói: “Bác sĩ ơi, cho phép tôi nói một chút đi. Vợ tôi đã ra sức bắt tôi tập trong nhiều năm rồi. Chúng tôi mua máy tập, và gần như nó giết chết tôi. Hơn nữa, cái máy và tôi trông giống như con hà mã mặc quần áo vậy. Việc ấy chỉ gây rắc rối thôi. Hãy điều chỉnh lại quả tim của tôi, và khi ấy tôi sẽ nghe theo lời khuyên của ông mà tập luyện. Hơn nữa, ông là chuyên gia mà”.
Tới điểm nầy, vị bác sĩ mở cửa phòng mạch mình ra rồi nói: “Về đi, ông là một thằng ngốc” (Andy Stanley, It Came From Within adapted, p. 99.)
Điều chi là thực về quả tim của bạn cũng là thực đối với tấm lòng thuộc linh của bạn đấy. Thỉnh thoảng chúng ta cất tiếng hát: “Hãy đổi lòng con, ôi hỡi Đức Chúa Trời, xin khiến nó ra chơn thật. Hãy đổi lòng con, ôi hỡi Đức Chúa Trời, nguyện con sống giống như Ngài”. Việc ấy còn hơn là hát lên một bài ca nữa. Nó đòi hỏi công việc khó nhọc thách thức các thói tật cùng những thái độ xấu của chúng ta rồi bổ sung chúng với cách ăn ở thánh khiết và suy nghĩ theo lẽ chơn thật. Nó cần có một số thói quen mới.
Giăng Báptít là một người có lý trí, có lương tâm và cung cách sống do Lời của Đức Chúa Trời tể trị. Nó giải thích lý do tại sao sứ điệp và đời sống của ông thì khác biệt hơn phần lớn nhiều người trong thế hệ của ông. Tư tưởng và mọi giá trị của chúng ta bị văn hóa của chúng ta bao lấy đến nỗi chúng ta mù lòa để cho nó nắn đúc chúng ta ra giống theo ảnh tượng của nó. Nếu chúng ta có bất kỳ hy vọng sống nào trong một phương thức làm đẹp lòng cho Đức Chúa Trời, chúng ta phải có việc chi đó nằm ngoài văn hóa của chúng ta nói cho chúng ta biết lẽ thật. Lẽ thật khách quan ấy chính là Lời của Đức Chúa Trời.
Chúng ta có khuynh hướng sống rất ích kỷ. Chính Lời của Đức Chúa Trời mở cổng trại giam cho chúng ta rồi thách thức chúng ta phải sống thật tự do. Chúng ta có khuynh hướng sống theo xác thịt lắm. Chính Lời của Đức Chúa Trời kêu gọi chúng ta phải thánh khiết và công bình đối với Đức Chúa Trời và loài người. Chúng ta có khuynh hướng suy nghĩ chỉ những vấn đề nhất thời, song chính Lời của Đức Chúa Trời khiến cho chúng ta phải sống với cõi đời đời ngay lúc bây giờ đây.
Khi bạn thuật là câu chuyện sống động về Giăng Báptít, đây là câu chuyện nói tới một người mà ý chỉ của Đức Chúa Trời đang tể trị trên đời sống của người. Nếu chúng ta cần phải kể lại câu chuyện, và một ngày kia người ta sẽ thuật lại câu chuyện của bạn, những gì họ nói sẽ là những điều đã tể trị đời sống của bạn?
Nếu Lễ Giáng Sinh nói tới sự khen ngợi Đức Chúa Trời và công bố Đấng Cứu Thế đã ngự đến, thế thì Giăng Báptít làm việc nầy như thế nào? Ông ngợi khen Đức Chúa Trời rồi công bố Chúa Jêsus là Cứu Chúa mà từ lâu họ mong đợi bằng cách sống theo Lời của Đức Chúa Trời tể trị.
II. CHÚNG TA CẦN PHẢI TỎ RA CON CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI.
Trong câu 76b chép rằng:
Giăng Báptít là sự ứng nghiệm Êsai 40:3Malachi 3:1. Mấy câu đó mô tả người tiền khu, là người sẽ loan báo sự đến của Đấng Mêsi. Malachi 4:5 chép người sẽ là một tiên tri giống như tiên tri Êli. Êli là vị tiên tri đầy năng quyền đã kêu gọi thế hệ ông ăn năn và xây lại với Đức Chúa Trời. Vai trò của người tiền khu là phải sửa soạn dân sự chờ Đấng Mêsi đến. Đây là cách mà Giăng đã tự xét mình.
Giăng 3:27-30, Giăng Báptít đang đáp ứng với các môn đồ đến báo cho ông biết rằng ai nấy đều chạy đến với Chúa Jêsus để chịu phép báptêm thay vì chạy đến với Giăng. Giăng nói đấy là điều cần phải xảy ra. Ông sánh mình với người phù rễ tại một tiệc cưới, và Chúa Jêsus là chàng rễ. Công việc của người phù rễ là nhìn thấy chàng rễ và cô dâu thành hôn và họ lên đường hưởng tuần trăng mật. Giăng nói đấy là công việc của ông. Ông kết luận sự ấy bằng cách nói rằng Ngài phải thăng lên, còn ông phải hạ xuống. Đấy chính xác là những gì Giăng đã làm. Ông nhạt dần đi khỏi bức tranh và Chúa Jêsus bị để lại đó đứng ngay giữa bối cảnh. Đời sống của Giăng hết thảy đều hướng tới Chúa Jêsus.
Ravi Zacharias kể lại câu chuyện nầy. Khi đến Lễ Giáng Sinh, gia đình bạn sẽ nhận ra những gì ông đã nói:
Cách đây mấy năm, chúng tôi dự Lễ Giáng Sinh ở nhà bố mẹ vợ tôi. Hôm đó chẳng có gì vui vẻ trong ngôi nhà ấy. Có nhiều việc sai lầm trong mấy tuần lễ trước đó, và có một gánh nặng đau buồn đang treo lũng lẳng ở trong nhà. Tuy nhiên, ở giữa mọi sự ấy, mẹ vợ tôi cứ giữ thói quen hỏi ai không có chỗ nào để dự Lễ Giáng Sinh thì dự bữa ăn tối Giáng Sinh với chúng tôi.
Năm ấy, bà có mời một người, theo đánh giá của từng người một, ông ta là một người thừa, hoàn toàn lập dị trong cách xử sự của ông ta. Chẳng ai biết gì nhiều về ông ta ở nhà thờ ngoại trừ việc ông ta đến đều đặn, ngồi một mình, rồi ra về mà chẳng trao đổi với ai hết. Rõ ràng ông ta đã sống có một mình và trông rất buồn bã, cô độc. Ông ta là khách mời Cơ đốc của chúng tôi.
Vì cớ có những việc khác xảy ra ở trong gia đình, không phải người nhỏ nhất trong nhà là một đứa con gái bị đưa vào bịnh viện để sanh đứa con đầu tiên của cô ấy, mọi sự đều ở trong chỗ lộn xộn. Cảm xúc của chúng tôi đều rối tung lên. Đổi lại, tôi cần phải trao đổi với nhân vật nầy. Tôi phải xưng nhận rằng tôi không muốn như thế. Vì tôi từng đi đó đi khắp cả năm, tôi phải lo nghĩ đến các bạn Cơ đốc của mình khi tôi ở với gia đình. Điều nầy sẽ chẳng phải là một đặc ân đâu, và tôi thấy chẳng vui vẻ gì lắm. Khi tôi ngồi trong phòng khách, trao đổi với ông ta đang khi những người khác đều bận rộn, tôi nhũ thầm: "Chắc đây là một trong những Cơ đốc nhân đáng thương nhất của cuộc đời tôi".
Nhưng dù sao đi nữa thì chúng tôi cũng qua hết cả buổi tối. Rõ ràng là ông ta rất thích bữa ăn, ngọn lửa kêu lách tách ở đàng sau, tuyết rơi ở ngoài sân, mấy băng Giáng Sinh đang chạy đều, và một cuộc bàn luận khá gay gắt về thần học, trong đó ông ta và tôi đều dính dáng vào – với sự giục giã của ông ta, tôi muốn nói như thế. Ông ta là một người đọc rất kỹ và, như tôi đã khám phá, ông ta thích vật lộn với những lẽ đạo thần học sâu sắc. Tôi cũng muốn thế, nhưng nói thẳng ra, chẳng có thì giờ nhiều trong một bữa ăn tối như thế nầy để chú về sự ấy.
Ở cuối buổi tối đó, khi ông chào tạm biệt chúng tôi, ông tiến tới rồi nắm lấy tay của từng người chúng tôi, từng người một, rồi ông nói: "Cảm ơn về Lễ Giáng Sinh tốt đẹp nhất trong cuộc đời tôi. Tôi sẽ không bao giờ quên đâu". Ông bước đi vào bóng đêm tối tăm, dưới bầu trời đầy tuyết, trở về nơi sinh sống cô độc của mình.
Tấm lòng tôi tự cáo trách nơi lời lẽ dịu dàng của ông ấy. Tôi phải rút ra từng sớ thần kinh trong người tôi mới giữ được khỏi bật khóc với hai hàng nước mắt. Chỉ một vài năm ngắn ngủi sau đó, trước sự kinh ngạc của chúng tôi, ông ấy đã qua đời. Tôi đã hồi tưởng lại Lễ Giáng Sinh ấy nhiều lần trong ký ức của tôi.
Năm đó Chúa đã dạy tôi một bài học. Mục đích chính của một gia đình là phản ảnh lại và phân phát tình yêu thương của Đấng Christ. Bất cứ điều chi tước bỏ sự ấy đều là thờ lạy hình tượng. Sau khi vượt cao lên khỏi thành kiến của xã hội, Chúa Jêsus đã tái đặt lại địa vị của sự giàu có cho các môn đồ Ngài. Vì thế, vững chắc thay là cái chạm mà nhiều người trong số họ trong nhiều năm tháng hầu đến sẽ rời khỏi gia đình họ mà đi đến các miền xa xôi của thế giới để công bố sứ điệp được gửi đến từ trời tái lập lại gia đình trên đất của họ. Mười một người trong số họ đã trả giá cho sứ điệp bằng mạng sống của họ.
Câu nói đầu tiên nổi tiếng của Rick Warren trong quyển Sống Có Mục Đích được áp dụng ở đây. Câu ấy không nói về bạn đâu. Mà câu ấy nói về Ngài.
Nếu Lễ Giáng Sinh nói tới sự ngợi khen Đức Chúa Trời và công bố Đấng Cứu Thế đã ngự đến, thế thì Giăng Báptít lo liệu việc nầy như thế nào? Ông đã ngợi khen Đức Chúa Trời và công bố Chúa Jêsus là Cứu Chúa mà người ta trông đợi bấy lâu bằng cách để cho Lời Đức Chúa Trời tể trị và bằng cách tỏ ra Con của Đức Chúa Trời.
III. CHÚNG TA CẦN PHẢI THUẬT LẠI CÂU CHUYỆN NÓI TỚI SỰ CỨU RỖI.
Bài ca nầy đang thuật lại câu chuyện nói tới sự cứu rỗi. Bức tranh Xuất Aicập được tìm thấy ở lời lẽ của câu 68. Kinh thánh cho chúng ta biết ở câu 69 rằng Đấng đến cứu chuộc chúng ta có quyền phép đủ để hoàn tất phần việc. Ơn cứu rỗi nầy sẽ cứu chúng ta ra khỏi mọi kẻ thù của chúng ta. Việc nầy có phần ứng dụng thuộc linh cũng như thuộc thể. Đức Chúa Trời là Đấng giải cứu chúng ta Ngài có đầy lòng thương xót. Việc nầy giải thích lý do tại sao Ngài muốn cứu chúng ta (câu 72). Sự cứu rỗi của Ngài làm thay đổi chúng ta. Chúng ta trở nên thánh khiết và công bình đối cùng Đức Chúa Trời và con người (câu 75). Chúng ta cần phải cung ứng cho dân sự sứ điệp nầy (câu 77). Hữu thể thiên thượng nầy đã ngự đến và tỏ ra cho chúng ta con đường dẫn tới chỗ làm hòa lại với Đức Chúa Trời (các câu 78b-79). Giăng được kêu gọi phải thuật lại câu chuyện nói tới sự cứu rỗi. Giăng phải là sứ giả của ơn cứu rỗi.
Có hai từ ngữ tóm tắt Lễ Giáng Sinh. Thứ nhứt, tội lỗi. Chúng ta là hạng tội nhân. Chúng ta về cơ bản là hạng người lấy cái tôi làm trọng. Chúng ta thường xuyên lật đổ Đức Chúa Trời và tự tôn mình lên. Thái độ tự tôn nầy nghịch lại với Đức Chúa Trời đời đời là Đấng đầy dẫy vũ trụ, thái độ ấy chỉ kiếm được cơn thạnh nộ, sự căm phẫn và sự phán xét của Ngài mà thôi. Đây là hành động kiêu ngạo trầm trọng nhất trong cõi vũ trụ.
Từ ngữ thứ hai là sự cứu rỗi. Từ ngữ nầy có ý nói tới sự tự do tránh khỏi cơn thạnh nộ và sự phán xét của Đức Chúa Trời. Lễ Giáng Sinh là câu chuyện nói tới Ngài nhớ lại chương trình của Ngài giải phóng chúng ta ra khỏi án phạt của chính chúng ta. Ngài đạt được điều nầy bằng cách bước vào thế giới của chúng ta, nắm lấy chỗ của chúng ta, rồi chết cái chết của chúng ta. Đây là sứ điệp quan trọng nhất, có cần nhất của nhân loại trên đất hôm nay.
Khi tôi suy nghĩ về việc rao giảng thêm một lần nữa loạt sứ điệp Giáng Sinh, tôi tìm kiếm đề tài nào đó phải khác biệt và mới mẻ kia. Chúng ta quá quen thuộc với các biến cố nầy đến nỗi chúng ta bị cám dỗ mà xem lờn chúng. Nhưng cái điều xảy ra cho tôi, ấy là Lễ Giáng Sinh thực sự là một thời điểm trong năm để thuật lại những truyện tích xưa cũ và quen thuộc. Thí dụ, ở một điểm nào đó, tôi muốn có thời gian để xem Đấy Là Một Đời Sống Kỳ Diệu. Bạn sẽ bảo con cái mình xem Charlie Brown đặc biệt về cây Giáng Sinh và mọi điều sẽ trưng dẫn Luca 2. Đài truyền hình sẽ chiếu lại Dickens A Christmas Tale, Miracle on 34th Street, Dr. Seuss How the Grinch Stole Christmas, The Christmas Story và phải coi chừng đừng dán mắt vào chương trình hình sự. Mặc dù có nhiều cuộn phim sẽ được chiếu lại vì hết thảy chúng đều có một lẽ đạo Chúa Giáng Sinh trong đó. Tại sao chúng ta xem các chương trình ấy?
Tôi cho rằng chúng đang mang lấy hột giống cứu rỗi. Dù là Scrooge được giải cứu ra cuộc sống héo hon, nhỏ mọn của mình hay George Bailey đã tỏ ra dư dật trong ơn phước của mình hoặc bé Natalie Wood có đức tin nơi Santa Claus được phục hồi, hết thảy chúng ta đều được giải phóng ra khỏi những thứ ràng buộc chúng ta.
Ngay cả những người chuyên bán lẽ đòi “Chúa Giáng Sinh” phải được thay thế với “kỳ lễ” không thể ngăn được việc thuật lại những tin tức tốt lành nói tới sự đến của Đức Chúa Jêsus Christ; vì điều chi là “kỳ lễ” [holiday] đúng là “ngày thánh” [holy day]. Tại sao chúng ta cần một ngày thánh chứ? Chúng ta là hạng tội nhân. Điều chi biến nó thành một ngày thánh vậy? Chúng ta có một Cứu Chúa.
Mùa lễ nầy hãy cầu xin Đức Chúa Trời tỏ ra cho bạn thấy hàng tá cách thức bạn có thể thuật lại câu chuyện nói tới ơn cứu rỗi. Đây là cách thức chúng ta ngợi khen Đức Chúa Trời và công bố Đấng Cứu Thế đã ngự đến. Giăng Báptít đã làm điều nầy bằng cách để cho Lời Đức Chúa Trời tể trị, tỏ ra Con của Đức Chúa Trời, và thuật lại câu chuyện nói tới ơn cứu rỗi.
CẦU NGUYỆN
MỜI GỌI
Một thị trấn mỏ của người Úc luôn luôn ghi nhớ năm giải cứu thảm họa. Một trận động đất làm chết một thợ mỏ và làm cho hai người thợ khác phải kẹt 3.000 feet dưới mặt đất. Nhiều ngày đổi thành nhiều tuần lễ khi các thợ mỏ lo dời đi hàng tấn đá; những toán giải cứu chỉ có thể làm việc hạn chế trong đường hầm giải cứu, sử dụng các công cụ bằng tay để tránh rủi ro. Họ đào xuyên qua đá năm lần nặng nhọc hơn xi măng. Năm ngày sau sự cố hai thợ mỏ bị kẹt kia đã nghe thấy âm thanh của toán giải cứu. Sáu ngày sau, một sự rạn nứt nhỏ đã được thực hiện, đồ ăn và hy vọng đã được chuyển cho những người bị kẹt. Mười bốn ngày sau sự cố, hơn 300 giờ chờ đợi được giải cứu, hai người thợ mỏ đã được cứu thoát. Bill Shorten, thư ký nội địa của Hiệp Hội Công Nhân Úc, ông nói: “Đây là lần vượt thoát lớn lao nhất ra khỏi nhà tù vĩ đại nhất”.
Bốn trăm năm, người ta đã chờ đợi nghe thấy từ Đức Chúa Trời. Giờ đây, Ngài đã phán. Một chương trình giải cứu đã được thực hiện và giải cứu thành công nhân loại ra khỏi sự trói buộc ngục tù, là tội lỗi của họ. Bạn có nghe Chúa đang gõ cửa không? Đấy là âm thanh của sự giải cứu. Hãy đến với Đấng Christ ngay bây giờ đi.

Luca 2:8-20: "Bài Ca Của Thiên Sứ"



Bài Ca Của Thiên Sứ


Luca 2:8-20


Lẽ thật: Chúa Giáng Sinh, những điều lạ lùng nơi sự ra đời của Đấng Cứu Thế.
Mục đích: Tôi muốn họ phải thờ lạy Đức Chúa Trời vì cớ Chúa Giáng Sinh.
Sống đạo: Chúng ta phục hồi lại sự kinh ngạc của mình trong dịp Lễ Giáng Sinh như thế nào?
PHẦN GIỚI THIỆU:
Điều hấp dẫn nằm ở những mâu thuẫn trong các chỗ giống nhau của chúng.
Thí dụ, Bill Crowder (Hội truyền giáo RBC) minh họa điều nầy với hai ban nhạc rock hàng đầu của thập niên 1960, ban Beatles và ban Rolling Stones. Cả hai ban nhạc đều xuất xứ từ Anh quốc, và cả hai ban nhạc đều có cao trào cách mạng trong âm nhạc của họ, song những chỗ giống nhau kết thúc ở đó.
Ban Beatles (trong các năm đầu đời của họ), dưới sự giám hộ cẩn thận của viên quản lý Brian Epstein, họ mặc vest đồng phục, tóc cắt ngắn, sáng sủa lắm, và vui tươi nữa, trong khi ban Stones thì ăn mặc tối tăm giống như băng đảng đường phố hơn là những người chơi nhạc chuyên nghiệp. Ban Beatles thì dễ thương đủ để bung ra một loạt phim hoạt hình; ban Stones thì lém lỉnh và giới thiệu họ là rất nguy hiểm. Ban Beatles vô tư hát: “I Want to Hold Your Hand” [Tôi muốn nắm tay anh] còn ban Stones thúc đẩy đôi bờ thịnh vượng vào thời đó với bài “chúng ta hãy cùng nhau qua đêm”. Như bạn vốn trông mong, các fan hâm mộ của họ sẽ khác nhau đến tận gốc rễ.
Câu chuyện Giáng Sinh có loại mâu thuẫn ấy. Bạn có nghĩ đến các thiên sứ và mấy gã chăn chiên là hai nhóm khác nhau nhiều lắm không? Các thiên sứ thuộc về thế giới khác, còn mấy gã chăn chiên thuộc về giai cấp xã hội thấp kém nhất trong thế gian nầy. Các thiên sứ thì sáng láng và vinh hiển với ánh sáng thiên thượng, còn mấy gã chăn chiên thì bẩn thỉu và mang lấy mùi hôi thối của bầy chiên. Các thiên sứ vốn biết rõ việc hiện hữu trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời là như thế nào rồi, còn mấy gã chăn chiên họ bị loại ra khỏi chính đến thờ mà họ lo chu cấp chiên con để làm của lễ. Các thiên sứ làm cho bối cảnh phải bùng lên với các đám mây, nhiều tiếng hô vang ngợi khen và thờ lạy, còn mấy gã chăn chiên thì há hốc mồm kinh ngạc rồi kinh hãi trong im lặng.
Mặc dù có những dị biệt như thế nầy, trong vấn đề của Lễ Giáng Sinh, các thiên sứ và mấy gã chăn chiên đang tỏ ra một điểm giống nhau rất đáng kinh ngạc. Cả hai: họ đều lấy làm lạ nơi sự ra đời của Đấng Cứu Thế! Trong nhiều thế kỷ, Cơ đốc nhân đã kỷ niệm với sự kính sợ và vui vẻ sự ra đời của Cứu Chúa, nhưng lần đầu tiên là bộ đôi các thiên sứ và mấy gã chăn chiên. Họ xuất thân từ nhiều triển vọng rất khác biệt thế nhưng họ đã đạt tới cùng một kết luận: sự ra đời của Đấng Cứu Thế quả là kỳ diệu.
Kỳ diệu là gì chứ? Chúng ta kinh nghiệm sự diệu kỳ khi mọi lý giải của chúng ta là quá độ. Kỳ diệu là rất đỗi kinh ngạc nơi việc quá sức suy tưởng, choáng váng bởi sự rực rỡ. Kỳ diệu là sản phẩm phụ của việc sống trong sự hiện diện của việc gì đó lấy đi hơi thở của bạn. Có một yếu tố của ý chí trong sự kỳ diệu. Một người có thể chọn không cảm kích sâu sắc.
Vào lần kỷ niệm thứ mười hội thánh nầy đã làm một việc thật là diệu kỳ đối với chúng tôi. Quí vị đã cho phép tôi và Carol đi nghỉ một tuần tại thác Niagara. (Đồng thời, chúng tôi dự tính xem trận cầu bóng chày của đội Toronto Blue Jays và xem Cal Ripkin chơi. Điều nầy thật có ý nghĩa đây!) Ngày kế sau khi chúng tôi đến, chúng tôi đi bộ xuống đến thác Niagara để xem. Trời hôm ấy thật là ấm áp. Khi chúng tôi còn cách thác một khoảng đường ngắn, nhiệt độ thình lình xuống tới mấy độ. Sự thể giống như bước vào căn phòng A/C vậy. Chúng tôi không thể hình dung việc gì đã xảy ra. Thế rồi chúng tôi đã tham quan thác Niagara.
Nhưng quí vị biết đấy, ở phía Mỹ có thác American và thác Bridal. Khoảng 150.000 gallons nước tràn xuống từng giây một. Ở phía Canada có thác nổi tiếng hình móng ngựa, và khoảng 600.000 gallons nước tuôn tràn qua phía nó từng giây một. Đây là một sự cảm thúc đáng kinh hãi.
Bạn có nhớ lần đầu tiên bạn nhìn thấy hẽm núi Grand không? Hẽm núi ấy sâu cả dặm và bề ngang của nó từ 4 đến 18 dặm cơ. Các phi hành gia có thể nhìn thấy hẽm núi ấy từ trên không gian. Bạn đứng ở đó lặng đi trong kinh ngạc. Hẽm núi ấy vượt quá sự suy tưởng của bạn. Bạn bị choáng bởi sự rực rỡ. Bạn lấy làm kinh ngạc bởi tình trạng vô cùng to lớn đó. Nó tước đi hơi thở khỏi bạn. Bạn biết rõ điều mà các thiên sứ và mấy gã chăn chiên đã kinh nghiệm nơi sự ra đời của Đấng Cứu Thế. Họ quá đỗi kinh ngạc.
Trong truyện tích Chúa Giáng Sinh, các thiên sứ đang bận rộn phân phát các sứ điệp. Thiên sứ đầu tiên mà chúng ta gặp gỡ có danh xưng là Gápriên. Hiển nhiên, Ngài có đẳng cấp cao trong đẳng cấp của các thiên sứ. Danh của Ngài có nghĩa là: “chiến binh của Đức Chúa Trời”. Họ là đẳng cấp đầu tiên đem sứ điệp từ trời xuống đất nói đến các tin tức tốt lành về một Đấng Cứu Thế sẽ ra đời. Gápriên nói cho thầy tế lễ già nua biết rằng Êlisabết, người vợ son sẻ của ông sẽ có thai và cho ra đời người tiền khu của Đấng Mêsi. Sáu tháng sau đó, Ngài xuất hiện trước cô thiếu nữ có tên là Mary tại ngôi làng Naxarét không mấy tiếng tăm. Ngài báo cho nàng biết nàng đã được chọn cho vai trò mang thai Đấng Mêsi được hứa cho. Đây là sự mong ước của từng người nữ Do thái. Ngài cũng thực hiện một cuộc thăm viếng Giôsép, rồi đoan chắc với chàng về sự thanh sạch của Mary và phép lạ mà nàng đã cưu mang trong tử cung của nàng.
Chín tháng sau đó Gápriên (chúng ta giả định) thình lình hiện ra tại bầu trời xứ Giuđê trên các cánh đồng của mấy gã chăn chiên tại thành Bếtlêhem. Sự sáng rực của dáng dấp Ngài là quá đỗi chỉ bởi sứ điệp gây choáng váng nầy ở các câu 10-12 trong Luca 2.
Lên tới điểm nầy trong câu chuyện, các thiên sứ đã phục vụ trong vai trò các sứ giả. Chúng ta sẽ nghĩ rằng đấy là chức năng chính của họ. Không phải như vậy đâu. Khi Êsai nhìn vào trong gian phòng có ngai của Đức Chúa Trời, ông đã nhìn thấy chức năng chính của các thiên sứ. Chức năng chính của họ là ngợi khen và thờ phượng Đức Chúa Trời. Hãy lắng nghe những gì Êsai đã nghe các thiên sứ bị chiếm hữu với khi ở trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời: “Thánh thay, thánh thay, thánh thay là Đức Giê-hô-va vạn quân! Khắp đất đầy dẫy sự vinh hiển Ngài!” (Êsai 6:3). Không bao lâu sau khi họ ngợi khen Đức Chúa Trời vì sự cả thể của Ngài xong, họ được nhắc nhớ về một việc khác liên quan tới sự vinh hiển và sự cả thể của Ngài, và họ đã bộc thốt ra lời thờ lạy khác nữa. Họ làm như vậy trong cả cõi đời đời.
Ở Khải huyền 4-5, Giăng được cung ứng cho một cái nhìn thoáng qua về thiên đàng. Ông tỏ ra rằng các thiên sứ đang tuyên bố sự thánh khiết của Đức Chúa Trời và họ đang yêu cầu người được chuộc của Đức Chúa Trời phải thờ lạy Đức Chúa Trời vì sự sáng tạo kỳ diệu của Ngài và phải thờ lạy Đấng Christ vì sự cứu rỗi diệu kỳ của Ngài.
Bạn phải thấy điều nầy. Các thiên sứ đã dùng cả cõi đời đời để ngợi khen Đức Chúa Trời vì sự sáng tạo và ơn cứu rỗi của Ngài. Không lâu sau khi họ hoàn tất việc nhìn xem điều chi đó trong sự vinh hiển của Đức Chúa Trời, họ đã ngợi khen và thờ lạy Ngài ở đó, hơn là họ khám phá điều chi mới nên bắt đầu một lần nữa dâng lời ngợi khen và thờ lạy lên cho Đức Chúa Trời đời đời. Ngợi khen và kinh ngạc nơi sự vinh hiển của Đức Chúa Trời là công việc đầu tiên của họ. Song khi thiên sứ Gápriên loan báo cho mấy gã chăn chiên nầy biết rằng Đấng Cứu Thế của nhân loại đã ra đời tại thành Bếtlêhem, họ không thể dằn lòng mình được nữa. Họ phá vỡ tình trạng im lặng của họ. Họ tỏ ra sự hiện diện của họ. Họ tung hô halêlugia đầy dẫy bầu trời xứ Giuđê! Có một việc rất kỳ diệu về sự kiện nầy đến nỗi nó ngắt ngang lời khen ngợi Đức Chúa Trời không dứt ở quanh ngôi của Đức Chúa Trời! Thật là kỳ diệu của Lễ Giáng Sinh nơi sự ra đời của Đấng Cứu Thế.
Tôi sẽ chỉ ra mọi sự mà một vị thiên sứ có thể làm là để ý đến sự cứu rỗi. Chỉ có những tội nhân được chuộc mới có thể kinh nghiệm ơn cứu rỗi. Sự kinh ngạc của chúng ta nhiều đến cỡ nào?
Đối chiếu với các thiên sứ là mấy gã chăn chiên, họ lấy làm lạ nơi sứ điệp nói tới Chúa Giáng Sinh. Sứ điệp ấy cho biết rằng các thiên sứ thì đáng tin cậy với sứ điệp tuy đơn sơ song rất là quan trọng mà cả thế gian đã từng nghe thấy. Có người nghĩ rằng cái điều hợp lý, ấy là các thiên sứ sẽ nhìn thấy sự vinh hiển của sự cố nầy rồi lên tới một cao điểm mới trong sự ngợi khen Đức Chúa Trời. Thế nhưng cái điều khó tin cho thấy rằng Đức Chúa Trời đã bật ra các tin tức trước tiên là cho mấy gã chăn chiên.
Hai mùa hè khi tôi còn là thiếu niên, tôi đã làm việc trong các cánh đồng quanh Lindsey. Đây là công việc khó nhọc nhất mà tôi đã từng làm. “Những chàng Johnnies bó rơm” sẽ đến từ khắp mọi nơi khi đến lúc mùa gặt. Thường thì họ sẽ đóng trại dưới cây cầu cạnh dòng sông Washita. Họ làm lụng khó nhọc sống gian khổ. Hầu hết họ đều học hành có hạn.
Chúng tôi được trả bằng tiền mặt vào cuối mỗi ngày lao động. Tôi đã đứng xếp hàng với ông tôi là Sasnett và hai người chú nữa để nhận tiền. Tôi không nắm bắt hết toàn bộ cuộc trao đổi, nhưng ông tôi thì có đấy. Về cơ bản, con trai của nhà nông phải là một tay cừ về “những chàng Johnnies bó rơm” họ sẽ không thể đếm số tiền rất cao khi chúng tôi được chi trả. Điều đó làm mất phẩm giá, và tôi nhớ Ông tôi đã tỏ ra rất giận dữ. Con người trong thế kỷ đầu tiên đã giữ lấy dư luận thấp kém như thế về mấy gã chăn chiên.
Có lẽ đây là những chàng trai trẻ. Vì cớ công việc, họ bị xem là ô uế và không thể tham gia thờ phượng tại đền thờ. Một khi bầy chiên cần phải được coi sóc thật thường xuyên, họ không thể tham dự vào các nghi thức tẩy rửa. Kết quả là họ thường trực ở ngoài lề không được chấp nhận thậm chí dâng chiên con trong bầy của họ cho sự thờ phượng Đức Chúa Trời nữa là. Sách Dân số ký cho chúng ta biết khiến cho ai đó trở thành kẻ chăn chiên là một hình thức hình phạt dành cho người nào làm mất lòng xã hội. Họ bị xem là loại trộm cắp. Một sự làm chứng của người chăn chiên bị xem là không đáng tin cậy và không được tòa án chấp nhận. Đây là hạng người mà Đức Chúa Trời đã tỏ ra và tin tưởng để giao cho các tin tức lạ lùng ở trên đất. Điều nầy chẳng ai có thể tưởng được sẽ là điều khả thi.
Đôi lúc bạn tìm được cái gì đó thật đắc tiền và dễ vỡ trong hai bàn tay nhỏ xíu của một đứa trẻ. Bạn mau chóng tìm cách cứu vớt món đồ vật đó vì bạn biết đứa trẻ không biết rõ giá trị của nó hay hiểu món đồ ấy dễ vỡ là dường nào. Đây là hạng người đã ở trên con đường sự sống ngăn trở họ không được thờ lạy Đức Chúa Trời tại đền thờ. Đấy là cách thức giá trị nhỏ mà họ đem đặt lên sự thờ phượng Đức Chúa Trời. Họ đang làm một cái nghề chẳng quan tâm mấy đến các điều răn của Đức Chúa Trời, dân chúng một cách máy móc đã xem họ giống như loại trộm cướp hay những kẻ nói dối.
Hãy suy nghĩ về điều đó xem. Sự thờ lạy Đức Chúa Trời và Lời của Ngài được đánh giá kém hơn công việc với bầy chiên. Đây là hạng người mà Đức Chúa Trời đã tin cậy trước tiên với các tin tức tốt lành nói tới một Đấng Cứu Thế! Điều đó làm cho lý trí phải chùn lại. Sự thể giống như kết án mấy tên cướp đã ăn hàng ở một nhà băng vậy. Sự giàu có của Đức Chúa Trời đã được giao thác cho hạng người thường xuyên đánh đổi sự vinh hiển của Ngài để lấy cái gì đó thấp kém hơn. Sự việc ấy gây lạ lùng nơi hạng người trong thế kỷ đầu tiên khi họ nghe câu chuyện nầy.
Trong việc tìm cách đọc câu chuyện Chúa Giáng Sinh với ánh mắt mới mẻ, cái điều hé rạng nơi tôi, ấy là mọi sự về câu chuyện thì đầy dẫy với sự lạ lùng. Sứ điệp, các sứ giả, và những phương tiện bởi đó mọi sự đã xảy ra không thể được cưu mang bởi lý trí có tính sáng tạo của loài người. Đức Chúa Trời đã nắm lấy hành động. Câu chuyện thật là diệu kỳ.
Chúng ta tái khám phá thể nào về những sự kỳ diệu của Lễ Giáng Sinh?
I. KỲ DIỆU KHỞI ĐI TỪ SỰ HIỆN DIỆN CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI.
Ở câu 9, chúng ta được thuật cho biết rằng mấy gã chăn chiên bị vây quanh bởi sự hiện diện có thể trông thấy được của Đức Chúa Trời. Điều chi là thực về mấy gã chăn chiên cũng là thực cho bạn và cho tôi đấy. Mọi sự ở chung quanh chúng ta là sự hiện diện của Đức Chúa Trời. Vấn đề là cuộc sống quá bận rộn hay nó có quá nhiều gánh nặng với sự âu lo của chúng ta muốn nhìn thấy sự hiện diện diệu kỳ của Đức Chúa Trời trong các chi tiết tầm thường của cuộc sống.
Mới đây, tôi có xem một phim truyền hình có tựa đề là Jack. Đây là truyện phim nói tới một thiếu niên ở độ tuổi bốn lần khác hơn bình thường. Robin Williams đóng vai Jack. Anh ta bước vào trường công lần đầu tiên ở lớp 5. Mặc dù anh ta có sự phát triển về tình cảm và trí khôn của một cậu bé ở lớp 5, anh ta có một cơ thể của một người ở tuổi 40.
Bối cảnh tôi đã xem là Jack đang quan sát một con bướm đang thoát ra khỏi cái kén. Máy quay phim nhắm vào ánh mắt của anh ta. Ánh mắt ấy đầy dẫy sự kinh ngạc khi anh ta quan sát phép lạ biến đổi nầy diễn ra. Một con sâu hóa thành con bướm xinh đẹp.
Những giây phút diệu kỳ giống như thế rất là quan trọng đối với chúng ta. Có thể đấy là việc quan sát một em bé khám phá ra hai bàn tay của chính nó lần đầu tiên hoặc một người đang đi bộ trong không gian. Những việc nầy còn làm nhiều hơn là chỉ làm cho đời sống của chúng ta được phong phú thêm. Đối với những người với ánh mắt nhìn thấy cái điều tỏ ra rằng thế giới nầy còn hơn là vật chất, năng lượng, và cơ hội. Có một Đức Chúa Trời siêu việt, các ngón tay của Ngài còn in trên khắp cả thế gian nầy.
Đức Chúa Trời đang hiện diện ở đây. Ngài đang hiện diện và năng động trong thế giới xinh đẹp nầy mà chúng ta đang sinh sống trong đó. Ngài đang hiện diện và năng động nơi con người mà chúng ta gặp gỡ. Ánh mắt của chúng ta là phương tiện để công nhận hoạt động và sự hiện diện của Ngài trong thế gian nầy. Chúng ta là phương tiện để nhìn thấy sự cả thể và sự nhơn từ của Ngài. Chính việc công nhận sự hiện diện của Đức Chúa Trời mới phục hồi cho chúng ta sự lạ lùng của chúng ta. Sự vinh hiển Ngài bao lấy chúng ta nếu chúng ta chỉ tìm kiếm Ngài.
Có thể nào một trong những mục đích mà Đức Chúa Trời dành cho Lễ Giáng Sinh là mở con mắt thuộc thể và con mắt thuộc linh của chúng ta hầu cho chúng ta nhìn thấy Ngài đang hiện diện ở đây! Những giây phút kỳ diệu khiến cho chúng ta phải tỉnh thức về sự hiện diện của Đức Chúa Trời.
Chúng ta tái khám phá sự kỳ diệu của Lễ Giáng Sinh như thế nào đây?
II. KỲ DIỆU LAN RỘNG TRONG SỨ ĐIỆP CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI.
Đức Chúa Trời có thể ban ra sứ điệp nầy cho Xêsa hoặc cho Hêrốt hay thậm chí cho thị trưởng của thành Bếtlêhem. Thay vì thế, Đức Chúa Trời lại ban sứ điệp nầy cho hạng người tầm thường phải chia sẻ với thế gian. Họ biết rõ những tin tức tốt lành là dành để cho việc chia sẻ. Sự làm chứng của họ là tự nhiên. Đó là sự tuôn tràn tự ý của tấm lòng họ.
Bốn ngày sau Lễ Giáng Sinh, năm 1995, Donny Herbert, ở Nữu ước, một lính cứu hỏa đã chịu một vết thương khiến ông bị hôn mê trong 9 năm ½. Ông chẳng biết về những gì có ở quanh ông và không thể nói năng chi được hết. Các con trai ông đều 14, 13, 11, và 3 tuổi khi ông rơi vào tình trạng hôn mê như thế nầy. Thế rồi việc diệu kỳ nhất đã xảy ra. Sau 9 năm ½, một ngày kia thình lình Donny trở dậy. Trong 16 giờ đồng hồ ông nói luôn không dứt, giờ đây mấy đứa con trai ông đã trở thành người lớn, vợ ông và bạn bè trong đội cứu hỏa của ông. Thế rồi ông rơi vào tình trạng hôn mê tương tự. Sau cùng ông bước vào cõi đời đời vào năm 2006.
Mười sáu giờ đồng hồ sống lại đó đã gây kinh ngạc cho mọi người. Có người gán tình trạng nầy cho một ly thuốc mà ông đã uống. Nhiều người khác cho rằng nhờ vào sự cầu nguyện. Vợ ông nghĩ phép lạ là do ý chí của ông muốn trò chuyện với gia đình một lần nữa. Dù bất kỳ lý do gì đi nữa, ông ấy đã có một ngày sáng sủa — một ngày khi ông thức tỉnh một cách trọn vẹn. Ông đã dùng ngày ấy để làm gì? Truyền đạt những việc quan trọng nhất cho số người quan trọng nhất.
Mỗi năm một lần thế giới đều có một ngày thật sáng sủa, ấy là ngày 25 tháng Chạp. Mọi sự đều dừng lại ở chỗ tốt đẹp nhất. Các gia đình sum họp. Các nhà buôn ngưng việc. Giao thông không trở ngại. Và thậm chí một nhà vô thần suy nghĩ về con trẻ được công bố là Đấng Cứu Thế của thế gian. Khi ấy dường như thế giới đang đi ngược vào tình trạng mê muội về Chúa Jêsus (Joel Gregory).
Khi Cơ đốc giáo được đem sánh với tất cả các tôn giáo khác, có một sự khác biệt rất thú vị. Mọi tôn giáo khác đều là tôn giáo về mặt đạo đức trừ ra Cơ đốc giáo. Ấn giáo chủ yếu là người Ấn độ, Hồi giáo là người Ảrập, Khỗng giáo là người Nhật, Phật giáo là người Á châu và Do thái giáo là người Do thái, nhưng Cơ đốc giáo không phải là tôn giáo của người Tây phương. Chúa Jêsus không phải là một người da trắng. Palestine là điểm tiếp giáp với ba đại lục: Á châu, Phi châu và Âu châu. Bạn giải thích sự dị biệt nầy giữa Cơ đốc giáo và các tôn giáo khác về mặt đạo đức với hạng người vô thần như thế nào? Người nào đạt tới chỗ nhận biết Đấng Christ phải chia sẻ sự kỳ diệu của Đấng Cứu Thế.
Hai tuần lễ nầy là hai tuần lễ làm chứng quan trọng nhất đối với một Cơ đốc nhân. Theo nghiên cứu bởi Trung Tâm Nghiên Cứu Truyền Giáo, 4 trong 10 người Mỹ dễ tiếp nhận lời mời trong suốt mùa Lễ Giáng Sinh. Nghiên cứu cho thấy rằng 42% những người được nghiên cứu, họ đi nhà thờ thường xuyên là kết quả của quyết tâm trong Năm Mới của họ, một khi họ chưa được sanh lại.
Có lẽ lý do những Cơ đốc nhân làm chứng ít ỏi là vì họ hiếm khi lấy làm lạ về những gì Đức Chúa Trời đã làm cho họ. Trước khi những người lân cận, bạn bè, hay bạn đồng sự rơi vào chỗ mê muội về Chúa Jêsus, hãy yêu cầu họ trở thành chi thể trong sự thờ phượng trong dịp Lễ Giáng Sinh của bạn. Ai biết được? Có lẽ Đức Chúa Trời sẽ làm điều chi diệu kỳ giống như cứu họ ra khỏi tội lỗi của họ vậy.
Chúng ta tái khám phá sự diệu kỳ của Lễ Giáng Sinh như thế nào?
III. KỲ DIỆU TẠO RA SỰ THỜ LẠY ĐỨC CHÚA TRỜI.
Kinh thánh chỉ ra rằng đáp ứng đầu tiên với sự kỳ diệu của Đức Chúa Trời là thờ phượng. Hãy nhìn vào lời đầu tiên của các thiên sứ nói với mấy gã chăn chiên ở câu 14. Ấy chẳng phải: “Đức Chúa Trời đã sai một Đấng Cứu Chuộc”. Đáp ứng đầu tiên của các thiên sứ khi họ tung ra các tin tức là thờ lạy Đức Chúa Trời. Toàn bộ thế giới cần phải được cứu, nhưng lời lẽ đầu tiên không nói tới một Đấng Cứu Thế. Lời lẽ đầu tiên đã nói tới sự vinh hiển của Cứu Chúa của sự cứu rỗi. Trong lý trí của các hữu thể thiên thượng Đức Chúa Trời luôn luôn giữ lấy vị thế thứ nhứt.
Chuyên tâm sự hiện diện kỳ diệu của Đức Chúa Trời, chúng ta phải đặt sự thờ phượng làm ưu tiên một của đời sống chúng ta. Đừng giới hạn đối với những lần kinh nghiệm thờ phượng. Tác giả Thi thiên phải nhìn vào một đêm trong sáng, lấp lánh với những vì sao, khi người nói: “Các từng trời rao truyền sự vinh hiển của Đức Chúa Trời; bầu trời giải tỏ công việc tay Ngài làm” (19:1).
Người đứng nhìn vào các từng trời và lấy làm lạ nơi công việc của Đức Chúa Trời Đấng Tạo Hóa. Người nhìn thấy sự nhơn từ, quyền phép và sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời. Nhưng quan trọng hơn người đang ở trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời, và điều nầy tạo ra sự thờ lạy Đức Chúa Trời.
Trong quyển “Chicken Soup for the Soul”, Dan Millman thuật lại câu chuyện nói tới Sachi. Khi cháu được 4 tuổi, em trai cháu chào đời. Bé Sachi bắt đầu xin bố mẹ để cháu một mình với đứa trẻ sơ sinh. Họ lo ngại rằng, giống như hầu hết những đứa trẻ 4 tuổi, cháu sẽ cảm thấy ganh tỵ và muốn đánh đập nó, vì vậy họ đã đáp “không”.
Mặc dù vậy, trải qua thời gian, khi Sachi chẳng tỏ ra những dấu hiệu ganh tỵ, họ đã đổi ý và quyết định để cho Sachi có cuộc chuyện trò riêng với đứa bé. Lấy làm tự hào, Sachi bước vào phòng đứa bé rồi đóng cửa lại, nhưng cửa lại mở ra — đủ cho bố mẹ cháu đang tò mò lén nhìn và lắng nghe. Họ nhìn thấy bé Sachi yên lặng tới gần em trai nó, áp mặt gần với mặt đứa bé, rồi nói: “Em bé ơi, hãy nói cho chị biết Đức Chúa Trời cảm nhận như thế nào đi. Chị sắp quên đây”.
Như vậy đấy! Đấy là những gì sự thờ phượng thực đang có. Nó phục hồi. Nó làm tỉnh thức lại sự lạ lùng của chúng ta khi Đức Chúa Trời sẽ sai một Cứu Chúa đến vì hạng tội nhân. Hãy mở mắt và mở lòng của bạn ra trước sự hiện diện của Ngài mọi sự ở chung quanh bạn. Hãy mở miệng bạn ra để chia sẻ sứ điệp của Ngài, và hãy tìm kiếm Ngài trong sự thờ phượng, và Lễ Giáng Sinh nầy kỳ diệu nơi sự ra đời của Đấng Cứu Thế.
CẦU NGUYỆN
LỜI MỜI
Lễ Giáng Sinh kỷ niệm Chúa Jêsus đã đến. Ngài phán Ngài sẽ tái lâm. Bạn có sẵn sàng đón Ngài tái lâm không?

Thứ Hai, 10 tháng 10, 2011

Luca 1:39-45: “Bài Ca Của Êlisabết”

“Bài Ca Của Êlisabết”
Luca 1:39-45



Sáng nay, chúng ta phải rất cân nhắc bắt đầu hát lên những bài ca Giáng Sinh. Đối với nhiều người dường như chưa phải là mùa lễ Giáng sinh cho tới chừng nào chúng ta khởi sự nghe thấy những bài ca Giáng sinh. Hết thảy chúng ta đều có những bài hát mà chúng ta ưa thích, cả về đời nầy và những bài hát chúng ta thích hát lên trong nhà thờ. Trong từng cửa hàng bạn bước vào, bạn sẽ nghe thấy các bài hát đại loại như: “The silence night”, “Jingle Bells”, “I Saw Mommy Kissing Santa Claus”, và “Ill Be Home For Christmas”. Theo ý của tôi thì điều đó là tốt lành vì âm nhạc và Lễ Giáng Sinh cùng song hành với nhau. Luôn luôn là như vậy, thậm chí ngay từ buổi ban đầu kia.
Sự thực cho thấy rằng những bài ca là một phần trong lễ kỷ niệm sự giáng sinh của Cứu Chúa trong một thời gian RẤT là lâu rồi. Thực vậy, các nhân vật chính trong câu chuyện Giáng sinh gần như đã đáp ứng ngay với với các biến cố xoay quanh sự ra đời của Chúa Jêsus bằng những bài ca. Giáo sư Kinh thánh lỗi lạc G. Campbell Morgan, ông viết: “Luca, nhà nghệ sĩ, đã thu thập và tuyển chọn, dưới sự dẫn dắt của Đức Thánh Linh, những truyện tích tỏ ra sự thực rằng khi Chúa Jêsus nhập thế thì thơ ca tự nó thể hiện và âm nhạc được hồi sinh”.
Vì vậy, khi chúng ta hát lên những bài ca Giáng sinh cả cũ lẫn mới, chúng ta có thể tìm được nhiều bàn tay tham gia vào rồi cất cao giọng hát chúng ta với những con người đã hát chúng lên trải qua nhiều thế kỷ.
Vì vậy trong các tuần lễ dẫn tới Lễ Giáng sinh, tôi muốn chúng ta có được cái nhìn vào những bài ca đầu tiên của Lễ Giáng sinh … với hy vọng rằng khi chúng ta nắm được như thế, chúng ta sẽ cảm nhận được nổi phấn khích và kinh ngạc mà những ca sĩ đầu tiên ấy trong dịp Chúa Giáng Sinh đã cảm nhận khi họ quan sát các biến cố vừa mở ra. Vì thế, đây là kế hoạch của chúng ta … Hôm nay chúng ta xem xét “bài ca của Êlisabết”… tuần tới - “bài ca của Mary” … tuần tới nữa chúng ta sẽ nghiên cứu “bài ca của Xachari” và vào Chúa nhật trước Lễ Giáng Sinh, chúng ta sẽ hoàn tất loạt bài nầy với – “Bài Ca Của Thiên Sứ”.
Thiên sứ đưa ra những lời loan báo của Ngài về sự ra đời sắp tới đây của Đấng Mêsi với Mary (1:26). Trong lời loan báo nầy, Ngài cũng tuyên bố rằng Êlisabết rất đang có thai (1:36-37). “Kìa, Ê-li-sa-bét, bà con ngươi, cũng đã chịu thai một trai trong lúc già nua; người ấy vốn có tiếng là son, mà nay cưu mang được sáu tháng rồi. Bởi vì không việc chi Đức Chúa Trời chẳng làm được".
Trong nổi phấn khích, Mary muốn chia sẻ các tin tức diệu kỳ ấy với ai đó. Người mà nàng chọn để chia sẻ việc ấy chính là Êlisabết người bà con của nàng. Lý do tại sao nàng đạt tới chỗ quyết định như thế nầy chúng ta không biết. Có lẽ sự thực cho thấy rằng cả hai đều mang một đứa con của sự thai dựng lạ lùng.
Câu chuyện của chúng ta hôm nay nhắm vào mối quan hệ cá nhân giữa hai phụ nữ nầy, giữa Êlisabết là người cao tuổi đang có thai, và người bà con trẻ tuổi là Mary. Ở điểm nầy, Êlisabết đang ở vào tháng thứ sáu của thai kỳ, đang mang lấy Giăng là con của bà, ông sẽ trở thành người tiền khu của Đấng Mêsi. Bà gặp Mary người bà con của mình, mặc dù nàng vẫn còn có nhận thức mình là nữ đồng trinh, lại đang mang thai Chúa Jêsus, danh xưng nầy có nghĩa là: “Đức Giêhôva là sự cứu rỗi”. Không những Êlisabết là một người rất đồng cảm, nhưng qua lời lẽ bà còn khích lệ Mary bằng lời lẽ của sự ứng nghiệm lời tiên tri.
Trong các câu 39-45, chúng ta đọc: “Trong những ngày đó, Ma-ri chờ dậy, lật đật đi trong miền núi, đến một thành về xứ Giu-đa, vào nhà Xa-cha-ri mà chào Ê-li-sa-bét. Vả, Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng Ma-ri chào, con nhỏ ở trong lòng liền nhảy nhót; và Ê-li-sa-bét được đầy Đức Thánh Linh, bèn cất tiếng kêu rằng: Ngươi có phước trong đám đàn bà, thai trong lòng ngươi cũng được phước. Nhân đâu ta được sự vẻ vang nầy, là mẹ Chúa ta đến thăm ta? Bởi vì tai ta mới nghe tiếng ngươi chào, thì con nhỏ ở trong lòng ta liền nhảy mừng. Phước cho người đã tin, vì lời Chúa truyền cho sẽ được ứng nghiệm!"
Thứ nhứt, Sự chuẩn bị của Êlisabết
Êlisabết đã để cả đời mình lo sửa soạn làm mẹ của Giăng Báptít. Hay chính xác hơn, Êlisabết đã để cả đời mình được Đức Chúa Trời sửa soạn để làm mẹ của Giăng Báptít – và thậm chí bà không biết được điều đó.
Trong nhiều năm tháng, bà và Xachari đã cầu nguyện xin Đức Giêhôva ban cho họ một mụn con. Và đúng vậy trong nhiều tháng năm, lời cầu nguyện của họ không được nhậm. Và có lẽ, giống như nhiều người trong chúng ta, họ không còn nhìn thấy bất kỳ một phương thức tự nhiên nào để lời cầu nguyện của họ sẽ được nhậm nữa, – nghĩa là, khi họ quá già không thể có con được – và ở một thời điểm nào đó, có lẽ họ đã thôi không còn cầu xin ơn phước ấy nữa.
Êlisabết đã kinh nghiệm một đời phấn đấu về sự son sẻ của bà. Trong một xã hội mà ở đó mục đích thực sự duy nhứt trong cuộc đời của người đàn bà là sanh đẻ và nuôi dạy con cái, một người đàn bà như Êlisabết quả là nhơn đức là dường nào, có phải không? Bà đã lấy làm lạ: “Có gì sai sót nơi tôi chứ? Sao Đức Chúa Trời lại nở phạt vạ tôi vậy?”
Nhưng đối với những ai đã kinh nghiệm vấn đề nầy, thì đây là một sự hạ mình, vì nó có nghĩa là họ đang đến với phần cuối của sự vô phương, không còn trông mong vào đâu được nữa. Trước khi chúng ta kinh nghiệm quyền phép của Đức Chúa Trời, chúng ta thường cần phải công nhận rằng chúng ta đã vô phương rồi.
Suốt mọi năm tháng ấy, Êlisabết đã cảm nhận được Đức Chúa Trời đang phạt vạ mình; nhưng khi Ngài đang phạt vạ bà, Ngài đang chuẩn bị cho bà. Ngài đã sử dụng tình trạng yếu đuối của bà để tỏ ra quyền phép của Ngài!
Nếu bà có thai Giăng khi bà ở độ tuổi 20 hay 30, người ta sẽ nói: “Ồ, Xachari và Êlisabết sẽ có một đứa con. Há như thế không hay sao?” Nhưng vì ai nấy đều biết rõ Êlisabết không thể có con được, tình trạng thai nghén của bà giống như một dấu hiệu lớn lao nói cho mọi người biết rằng đây không phải là sự ra đời như thường lệ đâu – Đức Chúa Trời đang làm một việc quan trọng và họ nên chú ý đến việc ấy.
Bà biết rõ đứa trẻ nầy có ít việc phải làm với bà và chồng của bà, và mọi sự cần phải làm với quyền phép của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời sẽ làm ra một việc quan trọng còn lớn lao hơn một đôi vợ chồng già sống trong vùng đồi núi xứ Giuđê có thể làm. Không một thiên sứ nào đến nói cho Êlisabết biết điều chi Ngài mới vừa nói cho Mary biết, rằng “Bởi vì không việc chi Đức Chúa Trời chẳng làm được”.
Thứ hai, Sự Đến Của Mary (Luca 1:39-41)
“Trong những ngày đó, Ma-ri chờ dậy, lật đật đi trong miền núi, đến một thành về xứ Giu-đa, vào nhà Xa-cha-ri mà chào Ê-li-sa-bét. Vả, Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng Ma-ri chào, con nhỏ ở trong lòng liền nhảy nhót; và Ê-li-sa-bét được đầy Đức Thánh Linh”.
Thật là khó tiếp thu hết chuổi thời gian vào trong lý trí của chúng ta. Nhưng điều khả thi, ấy là, trước tiên thiên sứ đến viếng Xachari rồi truyền cho ông biết sự ra đời của đứa con mà ông vốn chờ trông lâu nay – nan đề: ông và vợ ông đã già rồi – không thể có con được bao năm nay (Luca 1:11-20) và ông nãn chí trong sự vô tín. Khoảng sáu tháng sau, thiên sứ đến viếng Mary và phát ra những tin tức cho biết nàng sắp sửa chịu thai Con của Đức Chúa Trời – nan đề: nàng còn là nữ đồng trinh (Luca 1:26-38) (kế đó là nhiều nan đề nữa).
Mary tiếp nhận những điều nàng đã nghe là sự thực, nhưng nàng sẽ đi nói cho ai biết đây? Giôsép rõ ràng nằm trong danh sách ngắn ngủi những người cần phải nghe biết, không may theo Mathiơ, Giôsép đã không hiểu (Mathiơ 1:19). Ông yêu nàng, song không thể cưới nàng. Trong khi nàng thực hiện cuộc viếng thăm Êlisabết, Giôsép có một điềm chiêm bao và đưa ra quyết định (Mathiơ 1:20-23).
Mary đáp ứng với lời loan báo của Gápriên – tuy nhiên Đức Chúa Trời vốn biết rõ có lẽ sẽ có tới hàng triệu triệu thắc mắc và nghi ngờ nếu như không có thiên sứ đang đứng trước mặt nàng. Trong cả thế gian nầy, thì cô thiếu nữ nầy có thể đến với ai chứ? Ai có thể hiểu được đây? Ai có thể tin nàng khi nàng trình bày với họ chứ? Nhưng Đức Chúa Trời đã lo liệu vấn đề nầy rồi. Thiên sứ cũng nói cho Mary biết rằng người bà con của nàng là Êlisabết cũng đã có thai nữa. Nàng bèn đi gặp Êlisabết.
Mary đã thực hiện chuyến hành trình từ 80 đến 100 dặm vào trong vùng đồi núi xứ Giuđê, chắc chắn sẽ là chuyến đi tốn mất ba hay bốn ngày đường. Rồi khi nàng lên đường, nàng chẳng chút hồ nghi với những điều có trong tâm trí, hay nàng phải nói như thế nào với Êlisabết về những gì đã xảy ra?
Phân đoạn Kinh thánh dường như cho thấy rằng nơi sự đến của Mary tại nhà của Xachari và Êlisabết là rất bất ngờ. Mấy câu Kinh thánh nầy dường chỉ ra rằng Mary phải bước vào bên trong để gặp người bà con mình và nàng đã đưa ra lời chào trước.
Tuy nhiên, khi Mary đến nơi, Êlisabết đã biết rõ những gì đã xảy ra cho nàng mà chẳng có một lời giải thích nào hết. Sau khi nhìn thấy phép lạ kỳ diệu của Đức Chúa Trời trên chính đời sống mình, Êlisabết bắt đầu nhìn xem mọi sự qua ánh mắt của đức tin thật tươi mới. Và vì bà đã nhìn thấy công việc của Đức Chúa Trời trong chính đời sống của mình, Êlisabết có khả năng đưa ra sự khẳng định công việc của Đức Chúa Trời trên chính đời sống của Mary.
Thứ ba, phần đáp ứng của Êlisabết (Luca 1:42-45)
“bèn cất tiếng kêu rằng: Ngươi có phước trong đám đàn bà, thai trong lòng ngươi cũng được phước. Nhân đâu ta được sự vẻ vang nầy, là mẹ Chúa ta đến thăm ta? Bởi vì tai ta mới nghe tiếng ngươi chào, thì con nhỏ ở trong lòng ta liền nhảy mừng. Phước cho người đã tin, vì lời Chúa truyền cho sẽ được ứng nghiệm!"
Con Trẻ Nhảy Nhót Vì Vui Mừng
(câu 44)
Êlisabết báo cho Mary biết rằng khi nghe tiếng chào của nàng, đứa trẻ liền nhảy nhót ở trong bụng của bà. Có lẽ chỉ có người làm mẹ mới thực sự cảm nhận được xúc cảm được mô tả ở đây. Nhưng cái điều được mô tả còn hơn là cú đạp hay sự xoay trở nữa, từ ngữ có ý nói đứa trẻ đã nhảy lên với sự mừng rỡ.
Có một việc phải suy nghĩ đến. Thật là khó bỏ qua phần ứng dụng cho nhận định hiện tại của thế giới chúng ta về sự sống trước khi ra đời. Với mọi sự bàn luận hôm nay về lúc nào thì sự sống có ý thức mới bắt đầu, chúng ta thấy ở đây một câu nói không thể tin được. Ở 6 tháng tuổi Giăng có bề cao khoảng 9 inches và cân nặng khoảng 1 pounds 5. Tuy nhiên, chỉ ở 6 tháng tuổi, Giăng là một hữu thể biết cảm xúc rồi. Trước khi đứa trẻ nhìn thấy ánh sáng ban ngày, nó đã kinh nghiệm tình cảm vui mừng rộn ràng. Đúng là một cú nhảy vui mừng mà Êlisabết đã kinh nghiệm khi bà nghe tiếng chào của Mary và đã cảm nhận được con trai mình dù chưa ra đời đang nhảy nhót vui mừng!
Giống như đứa trẻ đã nhảy mừng trong lòng của Êlisabết, trái tim của chúng ta sẽ nhảy lên trong lồng ngực mình mỗi lần chúng ta nghĩ rằng Đức Chúa Jêsus Christ đã đến thế gian nầy đặng cứu rỗi linh hồn của chúng ta.
Chính con trẻ ấy ở đây đang nhảy mừng trước sự hiện diện của Chúa Jêsus, khoảng ba mươi năm sau sẽ giới thiệu Ngài cho thế gian biết là Đấng Mêsi bằng câu nói: “Kìa, Chiên Con của Đức Chúa Trời là Đấng cất tội lỗi thế gian đi” (Giăng 1:29).
Lời Ngợi Khen Của Êlisabết
Khi phân đoạn Kinh thánh tuyên bố rằng Êlisabết “cất tiếng kêu” (câu 42) thì câu ấy có ý nói: “hô lên lớn tiếng”.
Điều nầy bắt đầu bài ca đầu tiên được cung ứng cho chúng ta, thực vậy, chúng ta sẽ thấy tất cả bốn bài ca về Lễ Giáng Sinh trong sách Tin Lành của Luca. Đây là phần mở đầu của bài ca đầu tiên và bài ca ấy ra từ Êlisabết.
Lời lẽ được thốt ra bởi Êlisabết khi bà cất tiếng chào Mary đã trở thành một bài cầu nguyện có tên là “Ave Maria” hay “Hail Mary” bởi Giáo hội Thiên Chúa (bài cầu nguyện nầy được đem sử dụng vào thế kỷ thứ 11 và được phong thánh bởi Giáo hội vào thế kỷ thứ 12). Những gì khởi sự như lời ngợi khen dành cho người mang thai Đấng Mêsi đã bị đổi thành một lời cầu khẩn dành cho chính Mary. Họ nhắc lại cụm từ: “Chào Mary, đầy dẫy ân điển, người phước hạnh thay, và Jêsus được phước làm bông trái của tử cung người”.
Cụm từ “có phước trong đám đàn bà” (bản Kinh thánh KJV) đã bị diễn dịch sai và thường nhắm vào những việc Kinh thánh không có ghi về Mary. Giữa vòng những việc sai trái mà người ta dạy dỗ về Mary là: (1) Bạn có thể cầu nguyện với Mary – là tín điều cho rằng Mary là trung bảo giữa Đức Chúa Trời và loài người (I Timôthê 2:5) – bạn đã nhìn thấy câu nói: “nếu bạn không thể đến với Chúa Jêsus được, hãy thử đến với mẹ Ngài xem” (2) Chính Mary đã chịu thai thật lạ lùng (Sự thụ thai tinh khiết – nói tới sự có thai của Mary không phải sự thai dựng Chúa Jêsus), (3) Tình trạng đồng trinh vĩnh viễn của Mary – tín điều cho rằng Mary là một nữ đồng trinh trọn đời của nàng – Kinh thánh ghi lại các em của Chúa Jêsus, là kết quả sự ăn ở của Giôsép và Mary và (4) sự thăng thiên của Mary – tín điều cho rằng thân thể Mary được đem đi khỏi đất mà không qua sự chết.
Chúng ta cũng phải công nhận rằng trong một phản ứng với sự tôn kính đối với Mary, một người có thể trải đi từ thái cực đối ngược và chắc chắn bất chấp nàng. Trong thực tế, thể trạng con người của nàng khiến cho nàng càng đáng được ngợi khen hơn.
Có hai chữ khác biệt trong phân đoạn nầy thường được dịch là “blessed” [phước]. Trong câu 42, Êlisabết nói với Mary: “Ngươi có phước trong đám đàn bà, thai trong lòng ngươi cũng được phước!” từ ngữ ở đây là (eulogeo) – đây là chữ mà từ đó chúng ta mới có chữ eulogy [bài ca tụng] theo Anh ngữ. Đối với chúng ta, một bài ca tụng là bài thường được dành để cho các đám tang, nhưng là lúc chúng ta nói tới đời sống của người ta, từ một quan điểm tích cực khả thi. Không phải đấy là thời điểm để nói: “Mọi sự bạn biết đấy, ông ta là một kẻ say xỉn tục tằn và rất hay lăng nhăng!” Thực thế, nhưng rõ ràng đấy là chẳng phải là điều bạn nên nói trong một bài ca tụng!
Nhưng từ ngữ theo tiếng Hylạp không bị hạn chế đối với sự việc chỉ được thốt ra tại đám tang – mà từ ngữ ấy có thể nói ra sự ngợi khen, hay nói tốt cho, hoặc tôn vinh. Như vậy, Êlisabết đang nói: “Ngươi và con trẻ sẽ được tôn trọng lắm trên hành tinh nầy”.
Mary là một thiếu nữ chưa cưới mà có thai có lẽ sẽ không cảm thấy mình “được phước” vào thời điểm đó, đặc biệt sau chuyến hành trình 3 hay 4 ngày qua vùng đồi núi xứ Giuđê. Có lẽ hôm nay, bạn không cảm thấy mình “được phước” lắm. Nhưng chắc chắn lời lẽ của Êlisabết sẽ thành ra sự thực, nhưng có lẽ chúng chưa cảm thấy là thực cho Mary vào thời điểm ấy.
Từ ngữ khác nói tới “phước” được sử dụng trong câu 45, ở đây Êlisabết nói: “Phước cho người đã tin, vì lời Chúa truyền cho sẽ được ứng nghiệm!!” Lần nầy Luca dùng một từ khác (makaria chớ không phải eulogeo). Ông dùng một từ ngữ chẳng có gì phải làm với lời lẽ và dư luận của người khác và phải nhắm nhiều vào chỗ được ơn bởi Đức Chúa Trời, và nhắm vào tấm lòng và thái độ của một người nhìn biết ơn ấy.
Bản dịch New Living dịch chỗ nầy như sau: “Ngươi có phước vì ngươi tin rằng Đức Giêhôva sẽ thực hiện những điều Ngài đã phán”. Bà ngợi khen Mary (và hết thảy những ai giống như nàng) tin rằng Đức Chúa Trời sẽ thực hiện những gì Ngài phán. Êlisabết đang nói: “Mary ơi, khi ngươi nắm chặt lấy mọi lời hứa của Đức Chúa Trời và tin theo chúng, có một sự vui mừng sẽ nâng đỡ ngươi qua việc tin theo nầy!” Tôi nghĩ điều đó chỉ ra một sự vui mừng luôn luôn, bất chấp mọi hoàn cảnh.
Nhưng Êlisabết không những nói một cách tóm tắt, bà còn đang nói trên cơ sở kinh nghiệm riêng của bà. Bà đang nói: “Ta nghĩ ta biết ngươi cảm nhận ra sao và chắc chắn sẽ có nhiều nhọc nhằn lắm ở phía trước. Song khi ngươi tin cậy Ngài, khi ngươi nắm lấy Đức Chúa Trời nơi Lời của Ngài, khi ngươi trao mọi điều lo lắng cho Ngài, ngươi sẽ có PHƯỚC! Thực vậy, ta biết điều nầy vì ta đã kinh nghiệm nó!”
Trọn cuộc đời của bà, Đức Chúa Trời đã sửa soạn bà, không những làm mẹ của Giăng, mà còn là tấm gương nói tới sự trưởng thành và trung tín mà Mary có cần cho phần việc lớn lao đang ở trước mặt nàng. Êlisabết công nhận rằng Đức Chúa Trời không hàm ơn bà là một vai chính trong chương trình của Ngài khi bà nói: “Nhân đâu ta được sự vẻ vang [đặc ân] nầy, là mẹ Chúa ta đến thăm ta?” (câu 43). Bà có sự khiêm nhường để hiểu rằng bà không xứng đáng đứng đúng vị trí mà bà thấy mình đang đứng. Bà kinh sợ khi có bất kỳ vai trò nào trong chương trình của Đức Chúa Trời. Tương tự, mỗi Cơ đốc nhân đều cần phải dừng lại từng hồi từng lúc rồi nhận ra Đức Chúa Trời chẳng hàm ơn chúng ta điều gì, là Cơ đốc nhân chúng ta mắc nợ Ngài mọi sự và chúng ta nên đứng trong sự kinh sợ một khi Đức Chúa Trời sẽ ban cho chúng ta bất kỳ vai trò nào trong chương trình của Ngài.
Hãy chú ý những điều Êlisabết nói về con trẻ chưa chào đời của Mary. Bà gọi Ngài là “Chúa ta”. Sâu xa như chúng ta biết, Êlisabết là người duy nhứt xưng “Jêsus là Chúa tôi” trong khi Ngài vẫn chưa chào đời! Đúng là cái nhìn thuộc linh lạ thường mà bà đã tỏ ra với khả năng công nhận con trẻ nầy sẽ là Chúa của bà và là Chúa của mọi người khác nữa. Kinh thánh chép: “hầu cho nghe đến danh Đức Chúa Jêsus, mọi đầu gối trên trời, dưới đất, bên dưới đất, thảy đều quì xuống, và mọi lưỡi thảy đều xưng Jêsus Christ là Chúa, mà tôn vinh Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Cha” (Philíp 2:10-11). Êlisabết đã công bố điều đó trước tiên – nhưng bà không phải là người sau cùng!
Êlisabết đã tỏ ra tình yêu thương, sự tiếp nhận, lòng mến khách, hy vọng và đức tin cho một thiếu nữ đang có cần từng thứ một mà bà có thể hiến cho.
Phần kết luận
Theo ý tôi, câu chuyện nầy hết thảy đều nói tới cách thức Đức Chúa Trời chăm sóc cho Mary. Mary chỉ là một thiếu nữ vào thời điểm chắc chắn bị áp đảo với trách nhiệm đã được nấy cho nàng. Mặc dù nàng đã chấp nhận và hiểu rõ mọi điều Thiên Sứ đã nói cho nàng biết về sự ra đời của Chúa Jêsus, nàng cần đến sự trợ giúp của con người. Đức Chúa Trời đã dẫn dắt nàng đến với cộng đồng của đức tin, đến với Êlisabết tin kính và Xachari chồng nàng. Ở đây, nàng đã tìm gặp hạng người với đức tin chung, sự trông cậy chung và thậm chí một kinh nghiệm chung nữa. Đức Chúa Trời đã lo liệu cho Mary. Dường như rõ ràng là Đức Chúa Trời cũng dẫn dắt chúng ta vào một cộng đồng con người với một niềm tin chung – một Hội Thánh. Đức tin của Mary sẽ chùn bước nếu không có sự khích lệ và giúp đỡ của Êlisabết và Xachari. Giống như Mary, chúng ta cần phải lập ưu tiên một tự đặt mình vào cộng đồng những người tin theo Lời của Đức Chúa Trời.
Trong phần kết thúc, cho phép tôi nói, phương thức lớn lao nhứt để bắt đầu mùa lễ Giáng Sinh là phải biết đầu phục trước Thân Vị của Đấng Christ. Êlisabết đã công nhận mình là một tội nhân, là người cần đến một Cứu Chúa, rằng Jêsus là Cứu Chúa và bà đã tự mình đầu phục Ngài. Bạn có tự mình đầu phục đối với Ngài không?

“Bài Ca Của Êlisabết”
Luca 1:42-56

Thứ nhứt, Sự ______________________ của Êlisabết

Êlisabết đã dành trọn đời sống mình chuẩn bị làm mẹ của Giăng Báptít.

Thứ hai, Sự _________________ của Mary (Luca 1:39-41)

Chuổi biến cố khả thi. Thiên Sứ đến viếng ____________ (Luca 1:11-20)

Thiên Sứ đến viếng ___________ (Luca 1:26-38)

Mary thuật lại _______________ (Mathiơ 1:19)
Mary vội vã thuật lại ___________________ (Luca 1:39-56)

Chiêm bao của Giôsép & _______________ (Mathiơ 1:20-23)

Thứ ba, Sự ________________ của Êlisabết (Luca 1:42-45)

Con Trẻ Nhảy Nhót ___________ (câu 44)

Tiếng hô của Êlisabết ________________

Lời lẽ thốt ra bởi Êlisabết khi bà chào Mary đã bị lấy làm một lời cầu nguyện có đề tựa là “Ave Maria” hay “Hail Mary” và đã bị hiểu sai và thường trợ giúp cho những việc không ghi chép trong Kinh thánh về Mary.

(1) Bạn có thể __________ với Mary – (I Timôthê 2:5)
(2) Chịu thai lạ lùng __________________
(3) Tình trạng ________________ vĩnh viễn của Mary
(4) ___________________________ của Mary.

Thứ Năm, 6 tháng 10, 2011

“BÀI CA CỦA MARY”

“BÀI CA CỦA MARY”
Luca 1:28-35, 46-55


Tuần qua, chúng ta bắt đầu học loạt bài có đề tựa là “Những Bài Ca Của Lễ Giáng Sinh”. Chúng ta đang xem xét một số nhân vật chính của Lễ Giáng Sinh và nhận thấy họ đã đáp ứng với các biến cố đáng phấn khích trong Lễ Giáng Sinh đầu tiên, với những bài hát ngợi khen. Tôi mong rằng phần nghiên cứu của chúng ta sẽ giúp chúng ta nắm được sự kỳ diệu và niềm phấn khích của Lễ Giáng Sinh mà chúng ta có thể đã đánh mất.
Tuần qua chúng ta bắt đầu với cái nhìn vào “Bài Ca Của Êlisabết” và đã nhìn thấy thể nào Êlisabết toát ra bài ca vui mừng khi đối diện với viễn cảnh tuyệt vời sự ra đời của Đấng Cứu Thế. Hôm nay, chúng ta muốn dừng lại một chút để lập ra bối cảnh khi chúng ta nhìn vào “Bài Ca Của Mary”.
Để nhìn vào các bài ca như chúng vốn có, chúng ta phải lần theo hết chuổi biến cố. Thiên sứ đã hiện ra với Mary rồi nói cho nàng biết các tin tức quan trọng là nàng sẽ trở thành mẹ của Chúa Jêsus, là Cứu Chúa của nhân loại. Ngay khi ấy, gần như Mary rời khỏi nhà mình rồi đi đến nhà người bà con là Êlisabết, bà cũng đã có thai với Giăng là đứa con của phép lạ. Khi Mary đến nơi, Êlisabết chào hỏi nàng với một bài ca nói tới sự tái bảo đảm và khích lệ. Giờ đây Mary hãy còn ở với người bà con của mình, Êlisabết thốt ra một bài ca thờ phượng Đức Chúa Trời vì sự cao trọng của Ngài.
Làm sao chúng ta biết những gì chúng ta thấy được ghi lại ở đây là một bài ca? Theo bản Hylạp, bài hát được sắp xếp thành bài thơ giống như các Thi thiên đều là những bài ca của Cựu Ước. Thực ra, bạn chẳng thể làm chi khác hơn là hãy lưu ý Bài Ca của Mary đọc giống như một Thi thiên vậy. Hiển nhiên là Mary trưng dẫn năm trong số các Thi thiên trong Kinh thánh ở bài ca của mình. Bài ca ngợi khen nầy đôi khi được gọi là “Bài Ca Ngợi” một đề tựa được rút ra từ lời đầu tiên của bản Kinh thánh Latinh.
Sáng nay, khi chúng ta xem xét “Bài Ca Của Mary” tôi muốn bạn nhìn thấy Mary đã dạy dỗ nhiều về sự thờ phượng.
Thứ nhứt, Mary Thờ Lạy Đức Chúa Trời Mặc Dù Nàng Bối Rối Và Lúng Túng (1:28-35)
Thứ nhứt, chúng ta trở lại với lần hiện ra của các thiên sứ với Mary được ghi lại ở Luca 1:28-35: “Thiên sứ vào chỗ người nữ ở, nói rằng: Hỡi người được ơn, mừng cho ngươi; Chúa ở cùng ngươi. Ma-ri nghe nói thì bối rối, tự hỏi rằng lời chào ấy có nghĩa gì. Thiên-sứ bèn nói rằng: Hỡi Ma-ri, đừng sợ, vì ngươi đã được ơn trước mặt Đức Chúa Trời. Nầy, ngươi sẽ chịu thai và sanh một con trai mà đặt tên là Jêsus. Con trai ấy sẽ nên tôn trọng, được xưng là Con của Đấng Rất Cao; và Chúa, là Đức Chúa Trời, sẽ ban cho Ngài ngôi Đa-vít là tổ phụ Ngài. Ngài sẽ trị vì đời đời nhà Gia-cốp, nước Ngài vô cùng. Ma-ri bèn thưa rằng: Tôi chẳng hề nhận biết người nam nào, thì làm sao có được sự đó? Thiên sứ truyền rằng: Đức Thánh Linh sẽ đến trên ngươi, và quyền phép Đấng Rất Cao sẽ che phủ ngươi dưới bóng mình, cho nên con thánh sanh ra, phải xưng là Con Đức Chúa Trời”.
Trong sứ điệp sau cùng, chúng ta nhìn vào một số việc sai lầm đã được dạy dỗ về Mary; rằng Cơ đốc nhân phải cầu nguyện với Mary vì bà là Người Trung Bảo, niềm tin về sự chịu thai khi trinh trắng, sự thăng thiên của bà, và rằng bà là một nữ đồng trinh trọn đời. Tất cả mọi sự nầy sẽ làm tổn thương tấm lòng khiêm hạ của Mary. Thật là thú vị khi xem xét đâu là những phản ứng của Mary với những người tìm kiếm bà, cầu nguyện với bà, hay thờ lạy bà. Có lẽ sự thể sẽ giống y như việc bà cung ứng lời khuyên cho kẻ tôi tớ tìm kiếm mưu luận của bà ở tiệc cưới xứ Cana. Mary đã đáp ứng bằng cách bảo người ấy đến với Chúa Jêsus rồi nói: “hãy làm theo điều chi Ngài bảo” (Giăng 2:5).
Phần công bố sự ra đời của Cứu Chúa đã đến sau bốn trăm năm im lặng từ phía Đức Chúa Trời. Và tôi không muốn đi quá sự thực phần công bố với Mary cho rằng nàng “được phước giữa những người nữ” bởi thiên sứ khiến cho nàng phải bối rối.
Có lẽ chúng ta nên dừng lại và suy gẫm về thời điểm và địa điểm mà Mary đã thốt ra bài ca ngợi khen nầy. Nàng đã có mặt trong ngôi nhà nhỏ của Êlisabết. Đôi khi người ta nghĩ địa điểm duy nhứt để thờ phượng là nhà thờ và thời điểm duy nhứt đề thờ phượng là vào ngày Chúa nhựt. Bất cứ thời điểm nào và bất cứ địa điểm nào cũng đều là bối cảnh thích ứng cho sự thờ phượng. Bạn có thể thờ lạy Đức Chúa Trời bất cứ đâu và bất cứ khi nào bạn quyết định trải tâm linh bạn ra mà thờ lạy. Thậm chí tôi muốn đi xa hơn khi cho rằng thời điểm quan trọng cho sự thờ lạy Đức Chúa Trời là khi bạn đối diện với những hoàn cảnh rối rắm trong cuộc đời của bạn. Thật là dễ thờ lạy Đức Chúa Trời khi khi mọi sự suông sẻ cho bạn, nhưng sẽ ra sao khi cuộc sống của bạn rơi vào chỗ rối rắm? Khi đời sống của bạn suông sẻ, thờ phượng là một thứ xa xỉ, nhưng thờ phượng là cần thiết khi bạn đang phấn đấu, vật vã.
Chúng ta cần phải nhớ luôn rằng khi Mary thốt ra bài ca thờ phượng tuyệt vời nầy, nàng đã bối rối lắm. Buồn thay, hôm nay, trong xứ sở của chúng ta có nhiều ngàn thanh thiếu niên chưa lập gia đình mà đã có thai. Những biên độ thống kê đang dao động khi chúng ta tiến tới chỗ phân nửa con trẻ ra đời ở Mỹ đều từ những bà mẹ độc thân. Song vào thời điểm của Mary điều nầy cực kỳ hiếm. Có một vết nhơ xã hội và đạo đức rất nặng nề gắn cho tình trạng nầy. Mary sẽ bị cáo giác về tội tà dâm và bản án cho tội nầy là phải bị ném đá. Bạn có thể nghĩ tình trạng thai nghén của nàng không phải là “một vụ việc lớn lao” – nhưng tôi dám chắc với bạn rằng sự thể sẽ là như thế vào thời buổi và kỷ nguyên nàng sinh sống!
Nàng rất bối rối và lúng túng về việc nầy. Tôi tin khi thốt ra sự ngợi khen như thế nầy là sự tỏ ra nàng đầu phục trọn vẹn với chương trình của Đức Chúa Trời. Một số người trong các bạn đã đến đây hôm nay với những nan đề và nổi vật vã gay go. Đừng để nổi đau của bạn giữ bạn không thờ lạy Đức Chúa Trời. Đây chính là lúc mà bạn phải thờ lạy. Có một dòng quan trọng từ một bài hát mà đôi khi chúng ta hát như sau: “Vì xiềng xích dường trói buộc bạn, chỉ góp phần nhắc cho bạn nhớ, rằng chúng chẳng có quyền lực gì ở sau lưng một khi bạn ca ngợi Ngài” (Russ Taft, “Praise the Lord”).
Không Những Mary Thờ Lạy Đức Chúa Trời Dù Nàng Bối Rối Và Lúng Túng …
Thứ hai, Sự Thờ Lạy Của Mary Nhắm Vào Sự Cao Trọng Của Đức Chúa Trời (1:46-55)
“Ma-ri bèn nói rằng: Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, tâm thần tôi mừng rỡ trong Đức Chúa Trời, là Cứu Chúa tôi”.
Tấm lòng của Mary đầy dẫy với sự vui vẻ của Chúa và nàng tỏ ra niềm vui ấy trong một bài ca thờ phượng được sáng tác từ một sự hiểu biết sâu sắc Kinh Thánh Cựu Ước. Bài ca của nàng không dựa vào cảm xúc những gì nàng nghĩ Chúa sẽ giống như thế nầy hoặc nàng muốn Chúa sẽ như thế kia đâu. Nàng hát một bài ca dựa theo sự thực bản chất Ngài, như đã được tỏ ra trong Kinh thánh. Ngài là toàn tri, quyền năng, thánh khiết và đầy lòng thương xót.
Khi nàng nói: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa”, nàng sử dụng một cụm từ rất là thú vị. Đó là cụm từ “ngợi khen” (magnifies)megaluno và cụm từ nầy có ý nói: “làm cho rộng lớn thêm” và ở đây có ý nói dùng lời nói sao cho thật cao trọng. Nàng đang nói: “linh hồn tôi đang làm cho Chúa to lớn và to lớn hơn về địa vị cao cả của Ngài trong đời sống tôi”.
Mary đang tỏ ra cho chúng ta thấy sự thờ phượng toàn bộ hướng về Đức Chúa Trời và sự cao trọng của Ngài, chớ không phải về chúng ta. Trong thời của chúng ta, một sự bất đồng về kiểu cách thờ lạy đã xâm nhập vào nhiều nhà thờ của chúng ta. Vấn đề là kiểu cách thờ phượng, điều mà hầu hết mọi người đều nhắc tới là kiểu cách âm nhạc được sử dụng trong sự thờ phượng. Âm nhạc chỉ là một phần của sự thờ phượng song đấy là một phần rất quan trọng. Nhiều thế hệ khác nhau ưa thích phong cách thờ phượng khác nhau, thường có ý nói tới phong cách âm nhạc khác nhau. Chúng ta phải đạt tới chỗ nhìn biết rằng trong sự thờ phượng thực chất thì quan trọng hơn phong cách.
Chắc chắn là ở bất kỳ buổi sáng Chúa nhật nào cũng vậy trên nước Mỹ, bạn có thể nhìn thấy một sự đa dạng rất lớn về phong cách thờ phượng, ngay cả trong các nhà thờ thuộc hệ phái Báptít. Có một số nhà thờ chủ yếu tập trung vào việc đạt tới Generation X (“hai mươi thứ”) – họ không có ca đoàn, mà chỉ là một tốp ca thôi. Nhà thờ sẽ rất ồn ào và người ta sẽ đứng rồi ngợi khen trong 30 đến 45 phút. Thỉnh thoảng tôi tận hưởng điều đó, nhưng tôi không quan tâm về điều đó hết tuần nầy đến tuần khác. Nhưng mục đích, ấy là âm nhạc của họ không được sắp xếp để làm đẹp lòng tôi, mà nó hướng thẳng đến Đức Chúa Trời.
Các nhà thờ của chúng ta rất là hình thức và nghi thức trong sự tiếp cận của họ. Điều đó thực sự chẳng gây ấn tượng cho tôi bao nhiêu, song nếu họ thờ phượng từ tấm lòng của họ, tôi phải nói: “Nhiều năng quyền đến với họ!”
Một số nhà thờ trong xứ đã duy trì, họ sẽ chỉ hát những bài cổ điển xa xưa. Họ chỉ hát lớn tiếng bài “Heavenly Highways”“Stamps Baxter” theo thể loại âm nhạc Tin Lành, nhưng chắc chắn là tôi sẽ không xét đoán tấm lòng của những người đang ca hát thể loại âm nhạc đó. Tôi tin chắc rằng Đức Chúa Trời tiếp nhận và tán thưởng sự thờ phượng thật, bất luận là phong cách nào, bao lâu phong cách ấy ra từ tấm lòng.
Tôi nghĩ rằng thật là thú vị khi xem xét suốt cả Kinh thánh, chúng ta thấy Đức Chúa Trời ao ước chúng ta phải hát lên một bài ca mới cho Ngài, có phải không? Thực ra, Ngài còn truyền cho chúng ta “Hãy hát một bài ca mới cho Đức Giê-hô-va” (Thi thiên 96:1). Bây giờ, hãy suy nghĩ với tôi về việc ấy trong một phút xem. Hết thảy chúng ta đều có nhiều bài hát là những bài ca quen thuộc chúng ta đã hát trọn đời sống của mình, chúng có ý nghĩa với chúng ta vì cớ tính quen thuộc của chúng. Từng lúc chúng ta hát lên những bài ca ấy hay chúng ta nghe họ hát, tấm lòng của chúng ta được phước vô cùng và vì thế người ta sẽ ưa hát những bài ca tuy cũ nhưng quen thuộc. Nhưng chúng ta phải tự hỏi mình: “Vậy tại sao chúng ta thích hát những bài ca cũ trong khi Đức Chúa Trời bảo chúng ta phải hát bài ca mới cho Đức Giêhôva?” Sở dĩ như thế là vì chúng quá quen thuộc, chúng khiến cho chúng ta cảm nhận được sự yên ủi. Nhưng chúng ta phải dừng lại rồi nhận ra toàn bộ mục đích của sự thờ phượng và ngợi khen không phải là khiến cho chúng ta thấy thoải mái đâu. Toàn bộ mục đích của sự thờ phượng là ngợi khen, tôn vinh và chúc phước cho Chúa.
Trong ánh sáng phong cách âm nhạc, tôi cần phải nói rằng nhà thờ của chúng ta sử dụng cái mà chúng ta gọi là phong cách âm nhạc pha trộn. Chúng ta sử dụng cả cũ và mới. Tôi nói đùa rằng chúng ta tìm cách khiến cho ai nấy đều khốn khổ như nhau. Nhưng trầm trọng ở chỗ lý do chúng ta sử dụng phong cách pha trộn là vì chúng ta là một nhà thờ đa hệ. Chúng ta không nhắm vào đám đông trẻ tuổi hơn hay tốp người cao tuổi hơn. Chúng ta đang nhắm vào bất kỳ người nào đang cần đến Chúa Jêsus. Mục đích là đây – đừng chú trọng vào phong cách thờ phượng – hãy tập trung vào Đức Chúa Trời và sự cao trọng của Ngài. Chúng ta cần phải hiểu rằng thờ phượng hết thảy đều nói tới việc tôn vinh Đức Chúa Trời, chớ không phải những điều làm đẹp lòng tôi.
Đôi khi bạn nghe một người đưa ra câu nói đại loại như sau (thường thì khi họ không thích cái gì đó về âm nhạc): “Tôi chẳng nhận được gì nhiều từ sự thờ phượng như thế nầy”. Bất cứ khi nào có ai nói như thế thì rõ ràng là họ đang chú trọng vào việc sai lầm. Thờ phượng không phải là để cho bạn nhận được điều gì, mà thờ phượng là để cho bạn ban bố ra cái gì đó, hãy dâng sự ngợi khen và tôn vinh cùng sự vâng phục cho Đức Chúa Trời.
Vì vậy, hỡi lớp người trẻ tuổi, khi chúng ta hát một trong những bài thánh ca xưa nói tới đức tin, một số bài trong đó đã được viết ra cách đây cả trăm năm, đừng chỉ đứng ở đó rồi suy nghĩ: “Đúng là một bài cổ lổ sĩ, thậm chí bài ấy còn có những từ cổ ngữ trong đó; tại sao chúng ta không hát bài gì đó mới hơn?” Nếu bạn đang suy nghĩ như thế, bạn không có thờ phượng chi hết. Thay vì thế, đừng chú trọng vào sự ưa thích riêng tư, chỉ tập trung vào Chúa Jêsus rồi ca hát cho Ngài! Có lẽ bạn sẽ suy nghĩ: “Đây không phải là phong cách mà tôi ưa thích, nhưng có nhiều người khác ở đây họ ưa thích phong cách nầy. Tôi rất biết ơn vì những tráng niên trong hội thánh chúng ta, họ đã trung tín phục vụ, cầu nguyện và làm việc cho Chúa và rốt lại, thờ phượng không phải để cho tôi và những ưa thích của tôi; trọn sự thờ phượng là quy cho Đức Chúa Trời”. Đừng đứng ở đó với hai tay khoanh vòng lại hoặc trò chuyện với kẻ lân cận mình, hãy tham gia vào việc hát lên bài thánh ca ấy với một tấm lòng dâng trọn sự ngợi khen cho Đức Chúa Trời. Và khi tấm lòng của bạn được đầy dẫy, bạn chẳng thể làm chi khác hơn là ca hát! Đấy là điều mà Mary đã làm.
Hỡi bậc trung lão, khi chúng ta hát lên một trong những bài ca ngợi khen – Đừng đứng ở đó rồi suy nghĩ: “Tôi không thích bài nầy nhiều cho bằng mấy bài thánh ca xưa. Chúng ta chỉ đang hát lên cùng một câu quá nhiều lần”. Nếu quí vị đang suy nghĩ theo chiều hướng nầy, thế thì quí vị có lẽ là không đang thờ phượng rồi. Hãy thôi đừng chú trọng vào những điều ưa thích riêng tư của quí vị đi mà hãy tập trung vào Đức Chúa Trời ở trước mặt rồi hãy nhũ lòng: “Đây không phải là phong cách ưa thích của mình, song có nhiều người ở đây thích phong cách đó. Tôi rất biết ơn, hết thảy chúng ta đều là những người có tuổi trong hội thánh. Tôi cần phải nhớ: Thờ phượng không phải quy về tôi và mọi ưa thích của tôi; mà toàn bộ sự thờ phượng đều quy về Đức Chúa Trời và sự cao trọng của Ngài”. Khi ấy hãy hiệp với rồi hát lên bài ca ấy từ đáy lòng của quí vị. Bởi vì khi tấm lòng của quí vị được đầy dẫy, quí vị chẳng làm chi khác hơn là chỉ có ca hát!
Đấy là điều mà Mary đã làm.
Có ba phương diện nói tới sự cao trọng của Đức Chúa Trời mà Mary nhắm tới và thờ lạy Đức Chúa Trời vì:
Mary Thờ Lạy Đức Chúa Trời Vì Ơn Thương Xót Cả Thể Của Ngài (các câu 48-50)
“Vì Ngài đã đoái đến sự hèn hạ của tôi tớ Ngài. Nầy, từ rày về sau, muôn đời sẽ khen tôi là kẻ có phước; Bởi Đấng Toàn Năng đã làm các việc lớn cho tôi. Danh Ngài là thánh, và Ngài thương xót kẻ kính sợ Ngài từ đời nầy sang đời kia”.
Lực tác động sự kỉnh kiền của Mary đối cùng Đức Chúa Trời là chỗ nhận thức nàng “được phước” nhiều dường bao bởi Đức Chúa Trời. Nhưng quan trọng hơn là phải nhớ rằng “được phước” không có nghĩa là không có đau khổ hay khó khăn. Thực vậy, sẽ có nhiều ngày buồn rầu và khó khăn trong đời sống của Mary. Tình trạng được phước đến như một kết quả của sự thỏa mãn thuộc linh với cuộc sống chỉ có Đức Chúa Trời mới có thể ban cho. Nàng nhận ra ơn phước nầy đến từ Đức Chúa Trời. Phước hạnh là một kết quả của sự Ngài là ai chớ không phải nàng là ai!
Mary Thờ Phượng Đức Chúa Trời Vì Quyền Phép Đáng Sợ Của Ngài (các câu 51-53)
“Ngài đã dùng cánh tay mình để tỏ ra quyền phép; Và phá tan mưu của kẻ kiêu ngạo toan trong lòng. Ngài đã cách người có quyền khỏi ngôi họ, và nhắc kẻ khiêm nhượng lên. Ngài đã làm cho kẻ đói được đầy thức ngon, và đuổi kẻ giàu về tay không”.
Hãy đánh dấu các bài hát nói tới một Đức Chúa Trời là Đấng không bị gò bó bởi cách thức con người suy nghĩ hay những gì con người làm, thực vậy, Đức Chúa Trời đã làm đảo lộn mọi giá trị của con người. Ấy chẳng phải sự tự hào về mặt thuộc linh, ưu thế về mặt xã hội hay thịnh vượng về vật chất là những điều sẽ có lời lẽ sau cùng đâu. Ở đây Mary đang nói rằng sự kiêu căng, thế lực và sự giàu có không là vấn đề chi hết trong Nước của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời trong ơn thương xót rời rộng của Ngài sẽ tôn vinh và làm cho đầy tràn với những thứ tốt lành cho hết thảy những ai biết kính sợ Ngài, những kẻ ở trình độ thấp kém, kẻ khao khát về mặt thuộc linh.
Mary Thờ Phượng Đức Chúa Trời Vì Sự Thành Tín Không Dời Đổi Của Ngài (các câu 54-55)
“Ngài đã vùa giúp Y-sơ-ra-ên, tôi tớ Ngài, Và nhớ lại sự thương xót mình. Đối với Áp-ra-ham cùng con cháu người luôn luôn, như Ngài đã phán cùng tổ phụ chúng ta vậy".
Chúng ta đừng bao giờ quên lẽ thật nầy: rằng sự giáng sinh của Đấng Christ là sự ứng nghiệm lời hứa từ ngàn xưa của Đức Chúa Trời. Lẽ thật ấy khởi sự như một lời hứa giao ước ban cho Ápraham. Tôi thích những gì câu 54 chép: “Đức Chúa Trời nhớ lại sự thương xót mình”. Bạn không vui sao khi Đức Chúa Trời nhớ đến việc sai phái Con của Ngài? Mary quay nhìn lại lời hứa của Đức Chúa Trời với Ápraham chép: “Lạy Chúa, Ngài đã làm trọn lời hứa ấy. Ngài đã giữ Lời Hứa của Ngài. Lời hứa ấy đã có 2.000 năm rồi, nhưng Ngài đã nhớ lại sự thương xót mình”.
Thứ ba, Sự Thờ Phượng Của Mary Tạo Ra Sự Phục Vụ (câu 56)
Chúng ta hay bỏ sót ý nghĩa của câu 56. Ý nghĩa của câu nầy đáng phải là: “Cần phải làm gì sau khi ngươi hoàn tất việc ngợi khen Đức Chúa Trời?”
Hầu hết mọi người làm gì sau khi thờ phượng? Chẳng làm gì hết. Họ chỉ ra về thôi. Bạn có nhìn thấy những điều Mary đã làm không? Câu 56 chép: “Ma-ri ở với Ê-li-sa-bét chừng ba tháng, rồi trở về nhà mình”. Bây giờ, bạn không phải trở thành một học giả Kinh thánh mới hình dung ra lý do tại sao Mary đã ở lại đó. Nàng ở lại là để phục vụ cho Êlisabết. Mary là một bức tranh tuyệt vời về những gì sẽ xảy ra sau khi chúng ta có một kinh nghiệm đầy năng quyền của sự thờ phượng.
Có nhiều người chịu khó làm việc cho Đức Chúa Trời, song ít khi họ thờ phượng chơn thật. Có lúc họ sẽ nghĩ rằng mọi việc lành của họ là một sự thay thế cho sự thờ phượng. Họ làm, làm, làm cho Chúa Jêsus, nhưng họ ít khi ngồi xuống nơi chơn Ngài rồi dâng lên sự tin kính và ngợi khen Ngài.
Nhiều người khác vào trong nhà thờ và có một kinh nghiệm thờ phượng theo cảm xúc có thể đem lại nhiều giọt lệ nơi mắt họ. Họ rất cảm động và Đức Chúa Trời chạm đến họ. Nhưng khi họ rời khỏi nhà thờ, và họ chẳng thay đổi chi hết, sự thờ lạy kia chẳng bao giờ dẫn họ đến chỗ hầu việc Chúa, họ chỉ trông chờ cho đến buổi thờ phượng kế tiếp mà thôi. Nhưng sự thờ phượng thật sẽ tác động chúng ta phải phục vụ. Hêbơrơ 13:15-16 chép: “Vậy, hãy cậy Đức Chúa Jêsus mà hằng dâng tế lễ bằng lời ngợi khen cho Đức Chúa Trời, nghĩa là bông trái của môi miếng xưng danh Ngài ra. Chớ quên việc lành và lòng bố thí, vì sự tế lễ dường ấy đẹp lòng Đức Chúa Trời”. Sự thờ phượng thật luôn luôn kết quả trong việc làm lành và chia sẻ với tha nhân. Mary đã làm như thế!

PHẦN KẾT LUẬN:
Bài ca ngợi khen của Mary dạy dỗ chúng ta nhiều về sự thờ phượng.

Mary Thờ Phượng Đức Chúa Trời Mặc Dù Nàng Bối Rồi Và Lúng Túng.
Thời điểm quan trọng để thờ lạy Đức Chúa Trời là khi bạn đối diện với các hoàn cảnh rối rắm trong đời sống của bạn.

Sự Thờ Phượng Của Mary Tập Trung Vào Sự Cao Trọng Của Đức Chúa Trời
Ba phương diện nói tới sự cao trọng của Đức Chúa Trời mà Mary đã chú đến và thờ lạy Đức Chúa Trời vì:
+ Mary Thờ Lạy Đức Chúa Trời Vì Ơn Thương Xót Cả Thể Của Ngài
+ Mary Thờ Lạy Đức Chúa Trời Vì Quyền Phép Cả Thể Của Ngài
+ Mary Thờ Lạy Đức Chúa Trời Vì Sự Thành Tín Không Dời Đổi Của Ngài
Sự Thờ Phượng của Mary Tạo Ra Sự Phục Vụ

“Bài ca Của Mary”
Luca 1:28-35, 46-55

Thứ nhứt, Mary Thờ Lạy Đức Chúa Trời Mặc Dù Nàng ____________ và _______________. (1:28-35)

Hãy chú ý thời điểm và địa điểm mà Mary đã thốt ra bài ca khen ngợi nầy.

Thời điểm quan trọng để thờ lạy Đức Chúa Trời là khi bạn đồi diện với các hoàn cảnh _______________ trong đời sống của bạn.

Thứ hai, Sự Thờ Phượng Của Mary Chú Đến _________________ của Đức Chúa Trời (1:46-55)

Ba phương diện cao trọng của Đức Chúa Trời Mary chú đến và thờ lạy Đức Chúa Trời vì:

+Mary Thờ Lạy Đức Chúa Trời Vì ___________ Của Ngài (các câu 48-50).
+Mary Thờ Lạy Đức Chúa Trời Vì ____________ Đáng Sợ Của Ngài (các câu 51-53)
+Mary Thờ Lạy Đức Chúa Trời Vì _______________ Không Dời Đổi Của Ngài (các câu 54-56)

Thứ ba, Sự Thờ Phượng Của Mary Tạo Ra _________________ (1:56)

(Hêbơrơ 13:15-16)

Mary đã ở lại – nàng đã ở lại để _______________.