
BÀI CA CỦA XACHARI
Mục sư Ed Sasnett
Luca 1:67-79
Mục sư Ed Sasnett
Luca 1:67-79
Lẽ thật: Lễ Giáng Sinh nhắm vào việc ngợi khen Đức Chúa Trời và tuyên bố rằng sau cùng Đấng Cứu Thế đã đến.
Mục đích: Noi theo gương của Giăng sử dụng lễ Giáng sinh để chỉ Chúa Jêsus cho người ta.
Sống đạo: Gương của Giăng chỉ Chúa Jêsus cho người ta như thế nào?
Phần giới thiệu:
Isaac Watts là một thiên tài. Khi được 4 tuổi, ông đã học tiếng Latinh, 9 tuổi thì học tiếng Hylạp, 11 tuổi học tiếng Pháp, và 13 tuổi học tiếng Hybálai. Ông viết các Thi thiên lại theo thể thơ ca rất là tráng lệ. Không may cho Isaac đáng thương, ông không phải là người dễ nhìn. Cơ hội duy nhứt của ông trong tình yêu đã đến rồi đi với một thiếu nữ tên là Elizabeth, nàng đem lòng yêu Watts qua các bài thơ mà ông đã cho in ấn. Thế nên Elizabeth muốn lấy ông, là người sáng tác thật tình cảm sâu sắc đến nỗi nàng đã cứ chạy theo chiều gió và nhơn một bức thư yêu cầu ông cưới nàng.
Nhưng vào lúc sau cùng họ gặp nhau, nàng đã rút lại lời khẩn cầu của mình. Về sau, nàng viết rằng Isaac Watts chỉ là “một người cao có 5 feet, với gương mặt tẹt, mũi khoằm, xương gò má nhô cao, mắt ti hí, và màu da giống như chết rồi vậy … Tôi trầm trồ món nữ trang nhưng không mê nổi cái hộp đựng nó”.
Isaac không bao giờ lập gia đình, nhưng ông sử dụng đời sống độc thân của mình nhắm vào sự vinh hiển của Đức Chúa Trời. Vào năm 1719, Watts đã cho in tác phẩm thơ ca của mình dựa theo Thi thiên 98 mà nhiều người đã xem đấy là bài thánh ca Giáng Sinh bất hủ trong mọi thời đại: “Phước Cho Nhân Loại” (Lloyd Stilley, Lifeway).
Nhạc điệu hay luôn luôn gắn bó với Lễ Giáng Sinh. Chúng ta quá quen thuộc với truyện tích Giáng Sinh: thiên sứ, mấy gã chăn chiên, nữ đồng trinh và con trẻ. Nhưng chúng ta có quen thuộc với những bài ca trong Kinh thánh nói tới Chúa Giáng Sinh không? Các biến cố trong Lễ Giáng Sinh kỳ diệu đến nỗi nó kết quả trong một sự bùng nổ ra việc ca hát mô tả cái chạm của Con Trẻ nầy sẽ có trên thế giới của tội nhân.
Những bài hát đến rồi đi; nhưng có bốn bài ca nói tới Chúa Giáng Sinh cứ còn mãi trong 2.000 năm. Xachari, cha của Giăng Báptít, đã sáng tác bài ca đầu tiên trên danh sách bài hát Giáng Sinh của chúng ta. Theo tiếng Latinh, bài ca được đặt tên là “Benedictus” {bài ca tụng} theo lời đầu tiên trong bài hát ấy. Phân đoạn Kinh thánh được thấy ở Luca 1:67-80.
Bối cảnh của món trang sức nầy sẽ khiến chúng ta lấy làm kỳ diệu nơi vẻ đẹp của nó. Trong câu 5, Kinh thánh cho chúng ta biết rằng Xachari là một thầy tế lễ đã lấy con gái của một thầy tế lễ làm vợ. Điều nầy được xem là trường hợp hiếm có và tuyệt vời đối với một thầy tế lễ. Cả hai người đều dâng mình cho Đức Chúa Trời. Bạn có thể tưởng tượng phần tương lai kỳ diệu mà nhiều người đã lường trước cho đôi vợ chồng nhơn đức và tin kính nầy. Tôi dám chắc chén rượu mừng cưới bao gồm cả ơn phước có nhiều con cái cho họ, và có thể một trong những đứa con của họ đó sẽ trở thành Đấng Mêsi được sai đến để giải phóng cho dân sự của Đức Chúa Trời.
Đấy là giấc mơ của mọi cặp tân hôn trong xứ Israel. Từng cô dâu người Do thái đã được dạy dỗ phải có một gia đình lớn vì người con trai sẽ là Đấng Mêsi, Đấng Giải Cứu Israel được sai đến từ trời. Nếu có bất kỳ đôi vợ chồng nào đủ tư cách làm công cụ con người của lời hứa ấy, thì đó là Xachari và Êlisabết.
Câu 7 nói ra sự thực rất đơn sơ và không có chút tình cảm nào hết, song chẳng phạm lỗi gì hết một khi nó đầy dẫy với đau khổ. Họ không có con vì Êlisabết son sẻ. Nếu bạn có thể suy nghĩ đến vấn đề gia đình và văn hóa mà xã hội của chúng ta giải thích một khi Đức Chúa Trời bỏ quên bạn hay đang sửa phạt bạn, khi ấy bạn sẽ biết đôi điều về cách thức mà Xachari và Êlisabết đã cảm nhận. Nếu bạn từng ao ước một điều gì đó nhưng ước ao của bạn biến thành thất vọng rồi thất vọng ấy trở thành vô vọng và sự vô vọng đó trở thành sự chấp nhận miễn cưỡng, lúc đó bạn nhìn biết những gì đã tiếp diễn trong tấm lòng của đôi vợ chồng nầy.
Một đặc ân lớn đến cho thầy tế lễ nầy. Ông được chọn vào phục vụ trong đền thờ. Có nhiều thầy tế lễ đến, họ rút thăm quyết định xem ai là người được phục vụ trong đền thờ. Không những Xachari được phục vụ, mà ông còn được ấn định phải dâng hương nữa, đây là một đặc ân cả đời chỉ có một lần mà thôi. Nếu bạn được chọn, khi ấy tên của bạn sẽ bị dời đi ra khỏi sự cạnh tranh trong tương lai để người khác sẽ có đặc ân ấy. Ông đã dâng hướng nầy ở trước bức màn phân cách Nơi Thánh và Nơi Chí Thánh. Chỉ có Thầy Tế Lễ Thượng Phẩm mới được vào trong Nơi Chí Thánh mà thôi, và mỗi năm một lần. Truyền khẩu Do thái mô tả thầy tế lễ nào dự phần dâng hương nầy đều “giàu có và thánh khiết” trong phần đời của lại của họ.
Chính ở đây mà Xachari gặp gỡ thiên sứ và các tin tức cho biết người vợ cao tuổi của ông sẽ có thai. Bà sẽ sanh ra người tiền khu của Đấng Mêsi. Mặc dù thiên sứ đã đến thẳng từ sự hiện diện của Đức Chúa Trời, và có một số tiền lệ trong Kinh thánh về phụ nữ cao tuổi sanh con trai, Xachari hồ nghi Đức Chúa Trời không thể làm được việc nầy. Thiên sứ bảo đảm với ông việc nầy sẽ xảy ra và là một dấu để minh chứng cho phép lạ nầy, Xachari sẽ không thể nói được cho tới chừng con trẻ ra đời. Thà là Xachari không nói gì được còn hơn là ban ra một sứ điệp giả dối nói về chương trình cứu rỗi của Đức Chúa Trời.
Sau khi nghe câu chuyện nầy, một người nói với vị Mục sư của mình khi ông ta rời khỏi buổi thờ phượng rằng vợ ông ta sẽ có thai. Vị Mục sư trông bối rối lắm. Ông ta giải thích rằng bà nhà đã không nghe thấy một lời mà ông đã nói trong một thời gian dài.
Lần tới Xachari nói ra tên của con trai mình phải là Giăng y như thiên sứ đã căn dặn. Khi ông bồng con trẻ trên tay mình, ông thốt ra một bài ca ngợi khen Đức Chúa Trời. Bài thánh ca có thể được chia thành hai khổ. Khổ thứ nhứt là ngợi khen Đức Chúa Trời (các câu 68-75). Khổ thứ hai là nói tiên tri về Đức Chúa Trời (các câu 76-79). Mỗi dòng của bài ca tôn vinh nầy kỷ niệm Đức Chúa Trời sau cùng đã đến để chuộc lấy dân sự Ngài. Lễ Giáng Sinh nói tới sự ngợi khen Đức Chúa Trời và công bố sau cùng Đấng Cứu Thế đã ngự đến.
Nếu Lễ Giáng Sinh nói tới sự ngợi khen Đức Chúa Trời và công bố Đấng Cứu Thế đã ngự đến, thì Giăng Báptít thực hiện điều nầy như thế nào? Có điều gì được dặn dò về trường hợp của ông không? Giăng ngợi khen Đức Chúa Trời và tuyên bố Chúa Jêsus là Cứu Chúa từ lâu ai nấy mong đợi như thế nào?
I. LỜI CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI PHẢI TỄ TRỊ CHÚNG TA.
Giăng được gọi là tiên tri ở câu 76. Tiên tri là gì chứ? Một tiên tri đã được mô tả là một người loan báo trước và là một người tiên đoán trước. Một người tiên đoán trước là người nói trước các sự kiện trong tương lai. Sứ điệp của vị tiên tri thường bao gồm việc mô tả các sự kiện còn trong tương lai mà Đức Chúa Trời sẽ bày ra. Thực vậy, theo Phục truyền luật lệ ký 13, một sự kiện còn trong tương lai trở nên hiện thực quyết định vị tiên tri có đến từ Đức Chúa Trời hay không!?! Việc tiên đoán nầy được thấy ở các câu 67-75. Các vị tiên tri đã loan báo trước Đấng Cứu Chuộc khác giống như Môise sẽ đến và dẫn dắt dân sự trong việc thoát ra khỏi ách nô lệ mà vào trong sự tự do. Ngài sẽ là dòng dõi đầy quyền lực của Vua David sẽ đánh bại mọi kẻ thù và tỏ ra ơn thương xót cho những người tin theo.
Nhưng vị tiên tri ai cũng biết là người nói ra sứ điệp của Đức Chúa Trời cách đơn sơ, rõ ràng cho dân sự. Ông là một người loan báo trước. Đây sẽ là vai trò của Giăng. Ông sẽ nói cách đơn giản với dân sự rằng Đấng Giải Cứu của Đức Chúa Trời đã ngự đến, và họ cần phải sửa soạn tấm lòng của họ để tiếp nhận Ngài bằng cách ăn năn tội. Ngài sẽ dạy dỗ họ về ơn cứu rỗi và phương thức làm hòa lại với Đức Chúa Trời.
Một nguyên nhân cho sự ngợi khen của Xachari, ấy là rốt lại, sau 400 năm im lặng, người ta được nghe vị tiên tri của Đức Chúa Trời nói Lời của Đức Chúa Trời. Ở Luca 7 Chúa Jêsus phán rằng việc loan báo trước là đặc điểm quan trọng của Giăng. Ngài đã hỏi dân chúng lý do tại sao họ vào trong đồng vắng để nghe Giăng rao giảng? Có phải họ ra đó vì họ tưởng ông ấy là một cây sậy chăng? Một cây sậy cứ đu đưa theo luồng gió thổi. Có phải đấy là cách mà họ nghĩ về Giăng chăng? Có phải họ nghĩ ông không có xương sống không? Có phải họ nghĩ ông đã rao giảng bất cứ điều chi hợp ý dân sự không? Không, ông đã rao giảng Lời của Đức Chúa Trời.
Có phải họ nghĩ rằng ông sẽ mặc loại áo choàng của hoàng gia và được ơn không? Có phải họ nghĩ ông là một người thích chưng diện, một người rất ôn hòa và nhượng bộ trước những ham muốn của tư dục mình? Không. Họ ra đó vì ông là một vị tiên tri sống theo Lời của Đức Chúa Trời. Ông là một người không bị dư luận quần chúng hay những ham muốn tư dục quản trị mình, nhưng Lời của Đức Chúa Trời tể trị trong lý trí và lương tâm của ông.
Giả sử bạn gặp rắc rối trong đêm và bạn không thể leo lên lầu với hơi thở đứt đoạn. Bạn lấy làm lo và thực hiện cuộc hẹn với bác sĩ tim mạch. Ông ta thực hiện ngay một số xét nghiệm và quần quật trong ba phút xét nghiệm giống như một phương pháp hành hình được sử dụng cho kẻ khủng bố Hồi giáo. Một tuần sau bạn có mặt trong văn phòng của bác sĩ và ông ta có một cái nhìn khá gay gắt trên gương mặt của ông ta.
Vị bác sĩ nói: “Ở một cấp độ từ 1 đến 10, 10 là bối cảnh tệ hại nhất, ông đang ở vị trí số 7. Ông không cần giải phẩu trong lúc nầy, nhưng ông phải thực hiện một số thay đổi trong lối sống hoặc giả…”.
Ông ta hỏi: “Hoặc sao chứ ạ?”
Vị bác sĩ rút trong tập hồ sơ ra một tờ giấy rồi trao nó cho ông ta. “Ông phải tập ba ngày một tuần. Sau khi cơ thể ông được điều chỉnh hẳn hòi rồi, chúng tôi sẽ tăng thêm lượng bài tập có cần”.
Ông ta than phiền: “Nhưng bác sĩ ơi, ông không hiểu đâu”. “Tôi có một quả tim không được tốt. Ông đã xét nghiệm minh chứng điều đó. Nếu như tôi nhận được một quả tim mạnh hơn, khi ấy tôi có thể khởi sự tập luyện. Ông không thể mong tôi thực hiện việc nầy với tình trạng của tôi hiện nay”.
Vị bác sĩ trông bối rối lắm, vì vậy ông ta tiếp tục nói: “Ông nói ông muốn tôi tập luyện một ngày 30 phút, một tuần ba lần. Tôi sẽ thấy mình sập sình giống như chiếc xe lửa chở hàng hóa và đổ mồ hôi giống như con heo vậy. Tôi sẽ cau có trong nhiều ngày. Tôi không thể làm việc nầy đâu. Nào, hãy điều chỉnh lại quả tim của tôi đi, và khi ấy tôi mới nghĩ đến các bài tập nầy”.
Vị bác sĩ nói: “Tôi đang ra sức điều chỉnh trái tim của ông. Đây là cách ông điều chỉnh nó: bằng cách tập luyện nó. Cái điều bất tiện chính là một phần của sự chữa lành. Bằng cách thử thách quả tim và rồi để nó nghỉ ngơi, nó sẽ ngày càng mạnh mẽ và khỏi hẳn ra”.
Bạn nói: “Bác sĩ ơi, cho phép tôi nói một chút đi. Vợ tôi đã ra sức bắt tôi tập trong nhiều năm rồi. Chúng tôi mua máy tập, và gần như nó giết chết tôi. Hơn nữa, cái máy và tôi trông giống như con hà mã mặc quần áo vậy. Việc ấy chỉ gây rắc rối thôi. Hãy điều chỉnh lại quả tim của tôi, và khi ấy tôi sẽ nghe theo lời khuyên của ông mà tập luyện. Hơn nữa, ông là chuyên gia mà”.
Tới điểm nầy, vị bác sĩ mở cửa phòng mạch mình ra rồi nói: “Về đi, ông là một thằng ngốc” (Andy Stanley, It Came From Within adapted, p. 99.)
Điều chi là thực về quả tim của bạn cũng là thực đối với tấm lòng thuộc linh của bạn đấy. Thỉnh thoảng chúng ta cất tiếng hát: “Hãy đổi lòng con, ôi hỡi Đức Chúa Trời, xin khiến nó ra chơn thật. Hãy đổi lòng con, ôi hỡi Đức Chúa Trời, nguyện con sống giống như Ngài”. Việc ấy còn hơn là hát lên một bài ca nữa. Nó đòi hỏi công việc khó nhọc thách thức các thói tật cùng những thái độ xấu của chúng ta rồi bổ sung chúng với cách ăn ở thánh khiết và suy nghĩ theo lẽ chơn thật. Nó cần có một số thói quen mới.
Giăng Báptít là một người có lý trí, có lương tâm và cung cách sống do Lời của Đức Chúa Trời tể trị. Nó giải thích lý do tại sao sứ điệp và đời sống của ông thì khác biệt hơn phần lớn nhiều người trong thế hệ của ông. Tư tưởng và mọi giá trị của chúng ta bị văn hóa của chúng ta bao lấy đến nỗi chúng ta mù lòa để cho nó nắn đúc chúng ta ra giống theo ảnh tượng của nó. Nếu chúng ta có bất kỳ hy vọng sống nào trong một phương thức làm đẹp lòng cho Đức Chúa Trời, chúng ta phải có việc chi đó nằm ngoài văn hóa của chúng ta nói cho chúng ta biết lẽ thật. Lẽ thật khách quan ấy chính là Lời của Đức Chúa Trời.
Chúng ta có khuynh hướng sống rất ích kỷ. Chính Lời của Đức Chúa Trời mở cổng trại giam cho chúng ta rồi thách thức chúng ta phải sống thật tự do. Chúng ta có khuynh hướng sống theo xác thịt lắm. Chính Lời của Đức Chúa Trời kêu gọi chúng ta phải thánh khiết và công bình đối với Đức Chúa Trời và loài người. Chúng ta có khuynh hướng suy nghĩ chỉ những vấn đề nhất thời, song chính Lời của Đức Chúa Trời khiến cho chúng ta phải sống với cõi đời đời ngay lúc bây giờ đây.
Khi bạn thuật là câu chuyện sống động về Giăng Báptít, đây là câu chuyện nói tới một người mà ý chỉ của Đức Chúa Trời đang tể trị trên đời sống của người. Nếu chúng ta cần phải kể lại câu chuyện, và một ngày kia người ta sẽ thuật lại câu chuyện của bạn, những gì họ nói sẽ là những điều đã tể trị đời sống của bạn?
Nếu Lễ Giáng Sinh nói tới sự khen ngợi Đức Chúa Trời và công bố Đấng Cứu Thế đã ngự đến, thế thì Giăng Báptít làm việc nầy như thế nào? Ông ngợi khen Đức Chúa Trời rồi công bố Chúa Jêsus là Cứu Chúa mà từ lâu họ mong đợi bằng cách sống theo Lời của Đức Chúa Trời tể trị.
II. CHÚNG TA CẦN PHẢI TỎ RA CON CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI.
Trong câu 76b chép rằng:
Giăng Báptít là sự ứng nghiệm Êsai 40:3 và Malachi 3:1. Mấy câu đó mô tả người tiền khu, là người sẽ loan báo sự đến của Đấng Mêsi. Malachi 4:5 chép người sẽ là một tiên tri giống như tiên tri Êli. Êli là vị tiên tri đầy năng quyền đã kêu gọi thế hệ ông ăn năn và xây lại với Đức Chúa Trời. Vai trò của người tiền khu là phải sửa soạn dân sự chờ Đấng Mêsi đến. Đây là cách mà Giăng đã tự xét mình.
Ở Giăng 3:27-30, Giăng Báptít đang đáp ứng với các môn đồ đến báo cho ông biết rằng ai nấy đều chạy đến với Chúa Jêsus để chịu phép báptêm thay vì chạy đến với Giăng. Giăng nói đấy là điều cần phải xảy ra. Ông sánh mình với người phù rễ tại một tiệc cưới, và Chúa Jêsus là chàng rễ. Công việc của người phù rễ là nhìn thấy chàng rễ và cô dâu thành hôn và họ lên đường hưởng tuần trăng mật. Giăng nói đấy là công việc của ông. Ông kết luận sự ấy bằng cách nói rằng Ngài phải thăng lên, còn ông phải hạ xuống. Đấy chính xác là những gì Giăng đã làm. Ông nhạt dần đi khỏi bức tranh và Chúa Jêsus bị để lại đó đứng ngay giữa bối cảnh. Đời sống của Giăng hết thảy đều hướng tới Chúa Jêsus.
Ravi Zacharias kể lại câu chuyện nầy. Khi đến Lễ Giáng Sinh, gia đình bạn sẽ nhận ra những gì ông đã nói:
Cách đây mấy năm, chúng tôi dự Lễ Giáng Sinh ở nhà bố mẹ vợ tôi. Hôm đó chẳng có gì vui vẻ trong ngôi nhà ấy. Có nhiều việc sai lầm trong mấy tuần lễ trước đó, và có một gánh nặng đau buồn đang treo lũng lẳng ở trong nhà. Tuy nhiên, ở giữa mọi sự ấy, mẹ vợ tôi cứ giữ thói quen hỏi ai không có chỗ nào để dự Lễ Giáng Sinh thì dự bữa ăn tối Giáng Sinh với chúng tôi.
Năm ấy, bà có mời một người, theo đánh giá của từng người một, ông ta là một người thừa, hoàn toàn lập dị trong cách xử sự của ông ta. Chẳng ai biết gì nhiều về ông ta ở nhà thờ ngoại trừ việc ông ta đến đều đặn, ngồi một mình, rồi ra về mà chẳng trao đổi với ai hết. Rõ ràng ông ta đã sống có một mình và trông rất buồn bã, cô độc. Ông ta là khách mời Cơ đốc của chúng tôi.
Vì cớ có những việc khác xảy ra ở trong gia đình, không phải người nhỏ nhất trong nhà là một đứa con gái bị đưa vào bịnh viện để sanh đứa con đầu tiên của cô ấy, mọi sự đều ở trong chỗ lộn xộn. Cảm xúc của chúng tôi đều rối tung lên. Đổi lại, tôi cần phải trao đổi với nhân vật nầy. Tôi phải xưng nhận rằng tôi không muốn như thế. Vì tôi từng đi đó đi khắp cả năm, tôi phải lo nghĩ đến các bạn Cơ đốc của mình khi tôi ở với gia đình. Điều nầy sẽ chẳng phải là một đặc ân đâu, và tôi thấy chẳng vui vẻ gì lắm. Khi tôi ngồi trong phòng khách, trao đổi với ông ta đang khi những người khác đều bận rộn, tôi nhũ thầm: "Chắc đây là một trong những Cơ đốc nhân đáng thương nhất của cuộc đời tôi".
Nhưng dù sao đi nữa thì chúng tôi cũng qua hết cả buổi tối. Rõ ràng là ông ta rất thích bữa ăn, ngọn lửa kêu lách tách ở đàng sau, tuyết rơi ở ngoài sân, mấy băng Giáng Sinh đang chạy đều, và một cuộc bàn luận khá gay gắt về thần học, trong đó ông ta và tôi đều dính dáng vào – với sự giục giã của ông ta, tôi muốn nói như thế. Ông ta là một người đọc rất kỹ và, như tôi đã khám phá, ông ta thích vật lộn với những lẽ đạo thần học sâu sắc. Tôi cũng muốn thế, nhưng nói thẳng ra, chẳng có thì giờ nhiều trong một bữa ăn tối như thế nầy để chú về sự ấy.
Ở cuối buổi tối đó, khi ông chào tạm biệt chúng tôi, ông tiến tới rồi nắm lấy tay của từng người chúng tôi, từng người một, rồi ông nói: "Cảm ơn về Lễ Giáng Sinh tốt đẹp nhất trong cuộc đời tôi. Tôi sẽ không bao giờ quên đâu". Ông bước đi vào bóng đêm tối tăm, dưới bầu trời đầy tuyết, trở về nơi sinh sống cô độc của mình.
Tấm lòng tôi tự cáo trách nơi lời lẽ dịu dàng của ông ấy. Tôi phải rút ra từng sớ thần kinh trong người tôi mới giữ được khỏi bật khóc với hai hàng nước mắt. Chỉ một vài năm ngắn ngủi sau đó, trước sự kinh ngạc của chúng tôi, ông ấy đã qua đời. Tôi đã hồi tưởng lại Lễ Giáng Sinh ấy nhiều lần trong ký ức của tôi.
Năm đó Chúa đã dạy tôi một bài học. Mục đích chính của một gia đình là phản ảnh lại và phân phát tình yêu thương của Đấng Christ. Bất cứ điều chi tước bỏ sự ấy đều là thờ lạy hình tượng. Sau khi vượt cao lên khỏi thành kiến của xã hội, Chúa Jêsus đã tái đặt lại địa vị của sự giàu có cho các môn đồ Ngài. Vì thế, vững chắc thay là cái chạm mà nhiều người trong số họ trong nhiều năm tháng hầu đến sẽ rời khỏi gia đình họ mà đi đến các miền xa xôi của thế giới để công bố sứ điệp được gửi đến từ trời tái lập lại gia đình trên đất của họ. Mười một người trong số họ đã trả giá cho sứ điệp bằng mạng sống của họ.
Câu nói đầu tiên nổi tiếng của Rick Warren trong quyển Sống Có Mục Đích được áp dụng ở đây. Câu ấy không nói về bạn đâu. Mà câu ấy nói về Ngài.
Nếu Lễ Giáng Sinh nói tới sự ngợi khen Đức Chúa Trời và công bố Đấng Cứu Thế đã ngự đến, thế thì Giăng Báptít lo liệu việc nầy như thế nào? Ông đã ngợi khen Đức Chúa Trời và công bố Chúa Jêsus là Cứu Chúa mà người ta trông đợi bấy lâu bằng cách để cho Lời Đức Chúa Trời tể trị và bằng cách tỏ ra Con của Đức Chúa Trời.
III. CHÚNG TA CẦN PHẢI THUẬT LẠI CÂU CHUYỆN NÓI TỚI SỰ CỨU RỖI.
Bài ca nầy đang thuật lại câu chuyện nói tới sự cứu rỗi. Bức tranh Xuất Aicập được tìm thấy ở lời lẽ của câu 68. Kinh thánh cho chúng ta biết ở câu 69 rằng Đấng đến cứu chuộc chúng ta có quyền phép đủ để hoàn tất phần việc. Ơn cứu rỗi nầy sẽ cứu chúng ta ra khỏi mọi kẻ thù của chúng ta. Việc nầy có phần ứng dụng thuộc linh cũng như thuộc thể. Đức Chúa Trời là Đấng giải cứu chúng ta Ngài có đầy lòng thương xót. Việc nầy giải thích lý do tại sao Ngài muốn cứu chúng ta (câu 72). Sự cứu rỗi của Ngài làm thay đổi chúng ta. Chúng ta trở nên thánh khiết và công bình đối cùng Đức Chúa Trời và con người (câu 75). Chúng ta cần phải cung ứng cho dân sự sứ điệp nầy (câu 77). Hữu thể thiên thượng nầy đã ngự đến và tỏ ra cho chúng ta con đường dẫn tới chỗ làm hòa lại với Đức Chúa Trời (các câu 78b-79). Giăng được kêu gọi phải thuật lại câu chuyện nói tới sự cứu rỗi. Giăng phải là sứ giả của ơn cứu rỗi.
Có hai từ ngữ tóm tắt Lễ Giáng Sinh. Thứ nhứt, tội lỗi. Chúng ta là hạng tội nhân. Chúng ta về cơ bản là hạng người lấy cái tôi làm trọng. Chúng ta thường xuyên lật đổ Đức Chúa Trời và tự tôn mình lên. Thái độ tự tôn nầy nghịch lại với Đức Chúa Trời đời đời là Đấng đầy dẫy vũ trụ, thái độ ấy chỉ kiếm được cơn thạnh nộ, sự căm phẫn và sự phán xét của Ngài mà thôi. Đây là hành động kiêu ngạo trầm trọng nhất trong cõi vũ trụ.
Từ ngữ thứ hai là sự cứu rỗi. Từ ngữ nầy có ý nói tới sự tự do tránh khỏi cơn thạnh nộ và sự phán xét của Đức Chúa Trời. Lễ Giáng Sinh là câu chuyện nói tới Ngài nhớ lại chương trình của Ngài giải phóng chúng ta ra khỏi án phạt của chính chúng ta. Ngài đạt được điều nầy bằng cách bước vào thế giới của chúng ta, nắm lấy chỗ của chúng ta, rồi chết cái chết của chúng ta. Đây là sứ điệp quan trọng nhất, có cần nhất của nhân loại trên đất hôm nay.
Khi tôi suy nghĩ về việc rao giảng thêm một lần nữa loạt sứ điệp Giáng Sinh, tôi tìm kiếm đề tài nào đó phải khác biệt và mới mẻ kia. Chúng ta quá quen thuộc với các biến cố nầy đến nỗi chúng ta bị cám dỗ mà xem lờn chúng. Nhưng cái điều xảy ra cho tôi, ấy là Lễ Giáng Sinh thực sự là một thời điểm trong năm để thuật lại những truyện tích xưa cũ và quen thuộc. Thí dụ, ở một điểm nào đó, tôi muốn có thời gian để xem Đấy Là Một Đời Sống Kỳ Diệu. Bạn sẽ bảo con cái mình xem Charlie Brown đặc biệt về cây Giáng Sinh và mọi điều sẽ trưng dẫn Luca 2. Đài truyền hình sẽ chiếu lại Dickens A Christmas Tale, Miracle on 34th Street, Dr. Seuss How the Grinch Stole Christmas, The Christmas Story và phải coi chừng đừng dán mắt vào chương trình hình sự. Mặc dù có nhiều cuộn phim sẽ được chiếu lại vì hết thảy chúng đều có một lẽ đạo Chúa Giáng Sinh trong đó. Tại sao chúng ta xem các chương trình ấy?
Tôi cho rằng chúng đang mang lấy hột giống cứu rỗi. Dù là Scrooge được giải cứu ra cuộc sống héo hon, nhỏ mọn của mình hay George Bailey đã tỏ ra dư dật trong ơn phước của mình hoặc bé Natalie Wood có đức tin nơi Santa Claus được phục hồi, hết thảy chúng ta đều được giải phóng ra khỏi những thứ ràng buộc chúng ta.
Ngay cả những người chuyên bán lẽ đòi “Chúa Giáng Sinh” phải được thay thế với “kỳ lễ” không thể ngăn được việc thuật lại những tin tức tốt lành nói tới sự đến của Đức Chúa Jêsus Christ; vì điều chi là “kỳ lễ” [holiday] đúng là “ngày thánh” [holy day]. Tại sao chúng ta cần một ngày thánh chứ? Chúng ta là hạng tội nhân. Điều chi biến nó thành một ngày thánh vậy? Chúng ta có một Cứu Chúa.
Mùa lễ nầy hãy cầu xin Đức Chúa Trời tỏ ra cho bạn thấy hàng tá cách thức bạn có thể thuật lại câu chuyện nói tới ơn cứu rỗi. Đây là cách thức chúng ta ngợi khen Đức Chúa Trời và công bố Đấng Cứu Thế đã ngự đến. Giăng Báptít đã làm điều nầy bằng cách để cho Lời Đức Chúa Trời tể trị, tỏ ra Con của Đức Chúa Trời, và thuật lại câu chuyện nói tới ơn cứu rỗi.
CẦU NGUYỆN
MỜI GỌI
Một thị trấn mỏ của người Úc luôn luôn ghi nhớ năm giải cứu thảm họa. Một trận động đất làm chết một thợ mỏ và làm cho hai người thợ khác phải kẹt 3.000 feet dưới mặt đất. Nhiều ngày đổi thành nhiều tuần lễ khi các thợ mỏ lo dời đi hàng tấn đá; những toán giải cứu chỉ có thể làm việc hạn chế trong đường hầm giải cứu, sử dụng các công cụ bằng tay để tránh rủi ro. Họ đào xuyên qua đá năm lần nặng nhọc hơn xi măng. Năm ngày sau sự cố hai thợ mỏ bị kẹt kia đã nghe thấy âm thanh của toán giải cứu. Sáu ngày sau, một sự rạn nứt nhỏ đã được thực hiện, đồ ăn và hy vọng đã được chuyển cho những người bị kẹt. Mười bốn ngày sau sự cố, hơn 300 giờ chờ đợi được giải cứu, hai người thợ mỏ đã được cứu thoát. Bill Shorten, thư ký nội địa của Hiệp Hội Công Nhân Úc, ông nói: “Đây là lần vượt thoát lớn lao nhất ra khỏi nhà tù vĩ đại nhất”.
Bốn trăm năm, người ta đã chờ đợi nghe thấy từ Đức Chúa Trời. Giờ đây, Ngài đã phán. Một chương trình giải cứu đã được thực hiện và giải cứu thành công nhân loại ra khỏi sự trói buộc ngục tù, là tội lỗi của họ. Bạn có nghe Chúa đang gõ cửa không? Đấy là âm thanh của sự giải cứu. Hãy đến với Đấng Christ ngay bây giờ đi.