AN-NE & MARY
LỄ GIÁNG SINH
Đối với nhiều người trong thế giới của chúng ta, cái gọi là quyền phép của Đức Chúa Trời thì chẳng tìm được cho dù là chỗ nào. Nhiều người bước theo Chúa Jêsus đọc về quyền phép của Đức Chúa Trời trong Kinh thánh, song họ không dám chắc là bản thân họ kinh nghiệm ít nhiều về quyền phép ấy. Ngày nay, chúng ta tìm đâu ra quyền phép của Đức Chúa Trời? Quyền phép của Đức Chúa Trời đi từ quan niệm hấp dẫn của Kinh thánh đến chỗ kinh nghiệm sống động, điều nầy có khả thi hay không?
Lời cầu nguyện của An-ne
Có một phụ nữ trong xứ Israel tên là An-ne, nàng đã sống cách đây 3.000 năm. Nàng gặp phải chuyện không hay. Thứ nhứt, nàng son sẻ, là điều gây xấu hổ trong thế giới của nàng. Thực vậy, Đức GIÊHÔVA đã đóng tử cung của nàng lại. Thứ hai, nàng bị người vợ kia của chồng cứ chế giễu nàng mãi, người nữ ấy có khả năng sinh con cái. Thứ ba, chồng nàng chẳng chút nhạy cảm với hoàn cảnh của nàng. Thứ tư, khi nàng cầu nguyện và khóc lóc trong đền thờ, cầu xin một đứa con trai và hứa dâng nó cho Chúa, thầy tế lễ nói vu nàng say rượu. Phải, An-ne đã gặp chuyện không hay, nhưng Chúa đã nhậm lời cầu xin của nàng. Nàng có thai, sanh một con trai, rồi đặt tên là Samuên. Chơn thật với lời thề hứa của mình, nàng không sở hữu món quà, là con trai của nàng, nhưng đã buông đứa con ấy ra, dâng nó cho Chúa. Khi ấy, nàng sáng tác và cầu nguyện bài thi ca nầy:
I Samuên 2:1-10: “Bấy giờ An-ne cầu nguyện mà rằng: Đức Giê-hô-va khiến lòng tôi khấp khởi vui mừng, và đỡ cho mặt tôi ngước lên. Miệng tôi thách đố kẻ thù nghịch tôi; Vì sự chửng cứu Ngài làm cho tôi đầy khoái lạc. Chẳng ai thánh như Đức Giê-hô-va; Chẳng có Chúa nào khác hơn Ngài! Không có hòn đá nào như Đức Chúa Trời của chúng ta. Thôi, chớ nói những lời kiêu ngạo, chớ để những lời xấc xược ra từ miệng các ngươi nữa; Vì Giê-hô-va là Đức Chúa Trời thông biết mọi điều, Ngài cân nhắc mọi việc làm của người. Cây cung của kẻ dõng sĩ đã gãy, còn người yếu mòn thắt lưng bằng sức lực. Kẻ vốn no nê phải làm mướn đặng kiếm ăn, và người xưa đói đã được no nê, người đàn bà vốn son sẻ, sanh sản bảy lần, Còn người có nhiều con, ra yếu mỏn. Đức Giê-hô-va khiến cho chết, cho sống; Ngài đem người xuống mồ mả, rồi khiến lại lên khỏi đó. Đức Giê-hô-va làm cho nghèo nàn, và làm cho giàu có; Ngài hạ người xuống, lại nhắc người lên, đem kẻ khốn cùng ra khỏi bụi đất, và rút người nghèo khổ ra ngoài đống phân, đặng để họ ngồi bên các quan trưởng, cùng ban cho một ngôi vinh hiển làm cơ nghiệp; Vì các trụ của trái đất thuộc về Đức Giê-hô-va: Ngài đã đặt thế gian ở trên đó. Đức Giê-hô-va sẽ giữ chân của các thánh Ngài; Còn những kẻ ác sẽ bị hư mất nơi tăm tối; Vì chẳng do sức riêng mình mà người nào được thắng. Kẻ nào chống cãi Đức Giê-hô-va sẽ bị phá tan! Từ trên trời cao, Đức Giê-hô-va sẽ sấm sét cùng chúng nó. Ngài sẽ đoán xét bốn phương của đất, ban thế lực cho vua Ngài, và làm cho quyền năng Đấng chịu xức dầu của Ngài ra lớn”.
An-ne bắt đầu với chính câu chuyện của mình, song chẳng bao lăm thì lại lạc mất trong câu chuyện lớn lao hơn: câu chuyện nói tới vương quốc của Đức Chúa Trời.
Với nổi khổ ở trong lòng, nàng đã cầu xin một đứa trai và rồi, thật lạ lùng, nàng đã nhận được một đứa con trai. Tuy nhiên, nàng không bị nung nấu với những gì Chúa đã ban cho nàng hay với điều nàng đã dâng cho Chúa, mà với chính mình Chúa.
An-ne bị nung nấu với các thuộc tánh và công việc của Đức GIÊHÔVA: Ngài là ai và Ngài đang làm gì!?! Thuộc tánh làm cho nàng say đắm chính là quyền phép của Chúa. Công việc làm cho nàng phải ngây ngất là những gì Chúa đang làm với quyền phép của Ngài: Ngài hạ kẻ mạnh xuống rồi nhấc kẻ yếu lên. Chúa làm đảo ngược trình tự đã lập sẵn rồi lật úp thế gian xuống.
Làm sao An-ne học biết được những việc như vậy? Nàng đã tiếp thu rồi bằng cách ta thán về sự son sẻ của mình và nàng dốc đổ linh hồn mình ra với Chúa. Nàng đã tiếp thu những việc nầy ở đâu? Nàng đã học được từ chính tử cung của mình! Thật vậy, An-ne đang cầu nguyện: “người đàn bà vốn son sẻ, sanh sản bảy lần, còn người có nhiều con, ra yếu mỏn”. An-ne đã sanh một con trai, là Samuên, nhưng bản thân ông có thể tiêu biểu cho hết thảy 7 người con trai (con số 7 là con số của sự trọn vẹn) vì vai trò mà ông sẽ đóng trong vương quốc.
An-ne bắt đầu bằng cách lưu ý rằng “Chúa đỡ cho mặt tôi ngước lên” [bản Anh ngữ, “Đức GIÊHÔVA làm cho sừng tôi được ngước lên”]. Sừng con thú day lên là biểu tượng của sức mạnh, An-ne đang nói rằng Chúa đã làm cho nàng được mạnh mẽ. Nàng kết luận bằng cách cầu xin Chúa ban năng lực cho vua của Ngài, làm cho “sừng được xức dầu của Ngài” ngước cao lên. (Hai dòng sau cùng lẽ ra phải được dịch là: “Nguyện Ngài ban thế lực của vua Ngài/và [nguyện Ngài] tôn cao sừng được xức dầu của người”).
Vua nào chứ? Chẳng có vua nào hết. A, song sẽ có đấy, và An-ne, giống như nàng đã gặp gỡ Chúa rồi vậy, có thể đọc được các thời kỳ. Nàng phân biện rằng Israel cần một vì vua, và Chúa đã giúp cho nàng nhìn thấu cuộc tương lai. Nàng cầu xin ĐứcGIÊHÔVA ban năng lực cho nhà vua của Israel như Ngài đã thêm năng lực cho nàng. Thực vậy, lời cầu nguyện của nàng đã phóng ra trong một chiều hướng mới. An-ne không những lạc mất mình trong câu chuyện lớn lao hơn về vương quốc của Đức Chúa Trời, nàng cũng nhìn thấy Đức Chúa Trời của mình như đang gắn bó sát sao với câu chuyện rộng lớn hơn.
Hai câu chuyện — của nàng và của Đức Chúa Trời — thậm chí còn gắn bó với nhau hơn là nàng nhìn biết nữa. Samuên trở thành vị tiên tri đầu tiên của Israel . Là một vị tiên tri, ông đã xức dầu cho Vua David. Ông xức cho David bằng loại dầu nào thế? Dầu ra từ một cái sừng. Thật vậy, Đức GIÊHÔVA đã trả lời cho: Ngài làm cho sừng David, là vua của nàng, được ngước cao lên. David tiếp thu ra sao về quyền phép của Đức Chúa Trời? Theo cùng một cách mà An-ne đã có. Giống như An-ne, David đã ta thán về sự trống vắng của mình (ông phải chờ 20 năm sau khi được xức dầu làm vua, ngồi trên ngai vàng làm vua). An-ne đã học biết về quyền phép của Chúa trong sự son sẻ của tử cung nàng; David, bị săn đuổi bởi kẻ thù mình, đã học biết về quyền phép của Chúa trong sự trơ trọi của đồng vắng.
Năng lực trong chỗ son sẻ
Một số người trong chúng ta, có thể hoà đồng một cách trực tiếp ít hoặc nhiều với An-ne: chúng ta sẽ thích có con cái, nhưng tới nay thì chúng ta không thể. Phần nhiều người trong chúng ta có thể hoà đồng với An-ne theo nghĩa bóng: dù chúng ta có muốn con cái, có con cái, hoặc không thể có con cái, chúng ta cảm thấy son sẻ. Chúng ta cảm thấy mình không sanh sản, không thể tạo ra bất cứ thứ gì. Chúng ta ao ước loại đời sống kết quả, nhưng nhiều kỳ định đến rồi đi, và chúng ta vẫn còn ngóng đợi. Nếu Đức Chúa Trời đóng cửa tử cung của An-ne, có thể chính mình Chúa đã ngăn trở không cho chúng ta kết bông trái? Có lẽ, giống như An-ne, chúng ta cảm thấy ý thức về sự xấu hổ. Có người, nếu họ không chế nhạo chúng ta, như đối thủ của An-ne, hay giễu cợt chúng ta, như thầy tế lễ, có thể chẳng chút nhạy cảm với hoàn cảnh của chúng ta, như chồng của An-ne.
Làm sao chúng ta học biết về quyền phép của Đức Chúa Trời? Cùng một phương thức An-ne đã tiếp thu: bằng cách ta thán tình trạng son sẻ của mình rồi dốc đổ linh hồn mình ra với Đức Chúa Trời. Chúng ta học biết về quyền phép của Đức Chúa Trời ở đâu chứ? Cùng một nơi mà An-ne đã tiếp thu: trong chỗ son sẻ của chúng ta. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời nhậm lời cầu nguyện của bạn, Ngài sẽ thêm sức cho bạn — Ngài sẽ làm cho sừng bạn được ngước lên — qua những lời cầu nguyện của bạn. Chúa Jêsus, khi Ngài dốc đổ linh hồn mình ra tại vườn Ghếtsêmanê, cầu xin cái chén được cất đi khỏi Ngài, đã nhận được sức lực từ Đức Chúa Cha để uống cái chén đó. Vì vậy, khi bạn dốc đổ linh hồn mình ra với Đức Chúa Trời, không những bạn học biết được về quyền phép của Đức Chúa Trời, bạn cũng kinh nghiệm được quyền phép ấy nữa.
Khi tôi hướng về cuối những năm ba mươi tuổi của mình, vẫn còn độc thân, sau cơn đau đầu về quan hệ, tôi đã tìm cách chú ý nhiều hơn vào tấm lòng mình. Thay vì la hét đến khô họng về tình trạng son sẻ với những điều trông thấy mà hầu hết mọi người trong thế giới của chúng ta đều cảm thấy tồi tệ hơn cả tôi thấy nữa, rồi khi xem xét mọi sự, tôi thấy mình được phước, tôi để cho cái tôi của mình cảm nhận những gì mình cảm nhận. Tôi cứ để cho mọi cảm xúc của mình thong thả, cứ ta thán rồi dốc đổ linh hồn mình ra với Đức Chúa Trời, ghi đầy hết trang giấy nầy đến trang khác trong một tạp chí với những cảm xúc thô thiển tuôn tràn ra từ ngòi viết của mình. Hơn nữa, thay vì chỉ tin cậy Đức Chúa Trời đem một người nữ vào trong cuộc sống của mình nếu và khi Ngài chọn lấy, tôi thành khẫn cầu xin Ngài hãy làm như thế. Khi tôi ta thán, khi tôi dốc đổ linh hồn mình, khi tôi cầu nguyện, tôi đã kinh nghiệm một sự quen biết mật thiết mới mẻ với Đức Chúa Trời và cảm thấy vững vàng cách kỳ lạ, nhất là cho việc thắc mắc liên tục của tôi về một người vợ.
Bạn cảm thấy son sẻ theo chiều hướng nào? Ta thán, dốc đổ linh hồn mình ra, cầu nguyện, thì bạn sẽ kinh nghiệm quyền phép của Đức Chúa Trời. Hãy ta thán với tác giả Thi thiên: “Hỡi Emmanuên, xin hãy đến, xin hãy đến / Và hãy chuộc lấy phu tù Israel / Đang than khóc trong cuộc lưu đày ở đây kìa / Cho tới chừng Con Đức Chúa Trời hiện đến”.
An-ne đã nhìn qua bên kia sự trị vì của David, vì nàng cầu xin rằng Chúa sẽ“đoán xét bốn phương của đất”, vì vậy sự cầu thay xin nước Đức Chúa Trời mau hoàn thiện (một lần nữa, đây chẳng phải là thứ ngôn ngữ cầu xin, mà là khẳng định về cuộc tương lai). Sự trị vì của David đã đến và đi và chẳng bao giờ đến được các đầu cùng đất. Vì thế, An-ne thốt ra một lời cầu nguyện rồi gửi nó cho mọi thời đại. Liệu Đức Chúa Trời ở trên trời có nghe lời cầu xin của nàng chăng? Có ai ở trên đất nghe lời cầu xin đó không? Có lẽ chúng ta thốt ra, rồi gửi đi, những lời cầu nguyện tương tự, khao khát Đức Chúa Trời tiêu diệt điều ác rồi sửa lại mọi sai lầm, đặc biệt theo ánh sáng của việc bắn giết mới đây ở Newtown, Conn. Điều chi sẽ xảy ra với những lời cầu xin của chúng ta?
Lời cầu nguyện của Mary
Có một người nữ trong xứ Israel, hay, đúng hơn, một thiếu nữ, tên là Mary, nàng đã sống trong thế kỷ thứ nhứt, hơn 1.000 năm sau An-ne. Nàng gửi lời chào từ khu vực xứ Galilê, là nơi được xem là cấp hai sau xứ Giuđa, là láng giềng của nó ở phía Nam. Hơn nữa, nàng đã sống tại thị trấn Naxarét, một nơi vô nghĩa ngay cả người xứ Galilê anh em kia đã chế nhạo những ai sinh sống ở đó (Giăng 1:46). Mary, một nữ đồng trinh, đã hứa gã cho người có tên là Giôsép, song vì tình trạng tuổi trẻ, phái tính, và độc thân của nàng, nàng đã rơi xuống tận đáy tầng lớp xã hội trong thế giới của nàng. Không một ai đã xem nàng là đại biểu cho bất kỳ sự kiện đặc biệt nào.
Tuy nhiên, một thiên sứ có tên là Gápriên, rất quen thuộc với người Do thái vì Ngài đã giúp đỡ cho tiên tri Đaniên hiểu rõ các mặc khải về cuộc tương lai, đã hiện ra với Mary rồi nói cho nàng biết rằng nàng sẽ chịu thai bởi Đức Thánh Linh và sanh ra Đấng Mêsi mà mọi người từ lâu trông đợi, là Con của Đức Chúa Trời, lối nhập thế của Ngài mà giờ đây chúng ta đang tưởng niệm trong mùa lễ Giáng Sinh. Với mọi sự ấy, Mary đã đối diện với ít nhất hai chọn lựa khó khăn: thứ nhứt, tin theo vị khách lạ, và thứ hai, có vâng theo sứ điệp của Ngài hay không, có nghĩa là vòng tay ôm lấy sự xấu hổ của việc mang thai trước hôn nhân và đánh mất tình trạng nhỏ nhoi mà nàng vốn có, vấn đề nầy sẽ trực diện quan hệ đến gia đình của Giôsép. Tuy nhiên, nàng đã nói với thiên sứ: “Tôi đây là tôi tớ Chúa. Xin xảy ra như lời người truyền”. Sau khi viếng thăm người bà con son sẻ của mình trước đây, là Êlisabết, là người cũng được thấy đang có thai cách lạ lùng với một con trai là Giăng Báptít, Mary sáng tác và cầu nguyện bài thi ca nầy:
Luca 1:46-55: “Ma-ri bèn nói rằng: Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, tâm thần tôi mừng rỡ trong Đức Chúa Trời, là Cứu Chúa tôi. Vì Ngài đã đoái đến sự hèn hạ của tôi tớ Ngài. Nầy, từ rày về sau, muôn đời sẽ khen tôi là kẻ có phước; Bởi Đấng Toàn Năng đã làm các việc lớn cho tôi. Danh Ngài là thánh, và Ngài thương xót kẻ kính sợ Ngài từ đời nầy sang đời kia. Ngài đã dùng cánh tay mình để tỏ ra quyền phép; Và phá tan mưu của kẻ kiêu ngạo toan trong lòng. Ngài đã cách người có quyền khỏi ngôi họ, và nhắc kẻ khiêm nhượng lên. Ngài đã làm cho kẻ đói được đầy thức ngon, và đuổi kẻ giàu về tay không. Ngài đã vùa giúp Y-sơ-ra-ên, tôi tớ Ngài, và nhớ lại sự thương xót mình. Đối với Áp-ra-ham cùng con cháu người luôn luôn, như Ngài đã phán cùng tổ phụ chúng ta vậy”.
Lời cầu nguyện của An-ne nói tới việc Chúa xét đoán các đầu cùng đất không những Chúa nghe thấy, mà Mary cũng nghe biết nữa. Bài thơ của Mary không phải là bài gốc. Gốc gác của bài nầy có nội dung mà nàng đã rút tỉa ở các nguồn khác, chủ yếu là bài thơ của An-ne. An-ne, người nữ son sẻ không thể mang thai thế mà đã có thai, đã gửi bài thơ vào mọi thế đại, rồi nó đáp đậu hơn ngàn năm sau trong tấm lòng của một nữ đồng trinh, là thiếu nữ không thể mang thai thế mà đã có thai.
Giống như An-ne, Mary bắt đầu với câu chuyện của chính mình rồi lạc mất trong câu chuyện lớn lao hơn nói tới vương quốc của Đức Chúa Trời.
Không giống như An-ne, Mary không hề cầu xin một đứa trai. Tất nhiên, Mary không quan tâm khả năng nàng, một nữ đồng trinh, sẽ sanh một con trai, ít nhiều gì là Con của Đức Chúa Trời. An-ne vốn biết rõ điều mình cầu xin; Mary không biết điều phải cầu xin. Nhưng thiên sứ nói cho nàng biết: “Không có một việc gì khó đối với Đức Chúa Trời”. Đức Chúa Trời đã làm một việc cho nàng mà nàng không hề mơ tưởng nổi việc làm ấy cho bản thân mình. Vì nàng biết rõ lời cầu nguyện của An-ne, chưa nhắc tới những lời cầu nguyện của các trước giả Thi thiên, nàng biết rõ Đức Chúa Trời ưu ái cho kẻ khiêm nhường; vì lẽ đó, nàng lưu ý rằng Đức GIÊHÔVA đã đoái đến tình trạng “khiêm hạ” của mình. Thực vậy, Đấng Toàn Năng đã làm nhiều việc lớn cho nàng, là kẻ vô quyền. Không có gì là lạ lùng hết, nàng đã toát ra với lời ngợi khen.
Tuy nhiên, lời ngợi khen của nàng đã được thốt ra vì những điều Chúa đã làm cho một mình nàng mà thôi. Vì Chúa làm những việc lớn cho Mary, Ngài làm những việc lớn cho mọi người “từ đời nầy sang đời kia”: Ngài ban cho thế gian một Đấng Cứu Thế.
Giống như An-ne, Mary bị nung nấu với quyền phép của Chúa và những điều Ngài làm với quyền phép của Ngài — thể nào Ngài hạ kẻ mạnh xuống rồi nhấc kẻ yếu lên, thể nào Chúa làm đảo ngược trình tự lập sẵn rồi lật úp thế gian xuống. Nàng tiếp thu những việc thể ấy ở đâu chứ? Ít nhất, nàng tiếp thu chúng do việc lắng nghe lời cầu nguyện của An-ne. Nàng học biết những việc nầy ở chỗ nào chứ? Giống như An-ne, nàng tiếp thu chúng từ chính tử cung của mình! Ở tử cung của nàng, nàng thấy Chúa đoái đến tình trạng “khiêm hạ” của nàng; ở tử cung của nàng, nàng học biết rằng Chúa đặc biệt nâng cao nàng lên từ chỗ “khiêm hạ” như một phạm trù tổng thể. Thực vậy, không những Chúa đoái đến nữ đồng trinh thấp hèn; mà Ngài còn nâng lên hết thảy những ai biết hạ mình xuống trước mặt Ngài.
Mary bắt đầu bằng cách lưu ý rằng Chúa đoái đến tình trạng khiêm hạ của “tôi tớ Ngài” (Mary); nàng kết luận bằng cách lưu ý rằng Chúa, qua cách phủ lấy nàng “đã vùa giúp Israel tôi tớ Ngài” trong sự ứng nghiệm mọi lời hứa của Ngài với Ápraham — các lời hứa vươn dài ra ôm chầm lấy mọi dòng dõi của Ápraham, là những người tin nơi Con Trai của Mary.
Con trai của An-ne đã xức dầu cho vua của Israel vì sự có cần cho thời kỳ ấy; con trai của Mary không những là vua của Israel, mà còn là vua của thế gian, không những trong một kỳ mà trong nhiều kỳ. Tiên tri Giăng Báptít, con trai người bà con của Mary, là Êlisabết, đã đóng vai trò của Samuên, làm phép báptêm cho Chúa Jêsus Đấng Mêsi và báo hiệu sự giáng lâm của Đức Thánh Linh trên Đấng Chịu Xức Dầu. An-ne đã cầu nguyện về cái ngày mà Chúa sẽ xét đoán các đầu cùng đất. Mary sanh ra vì vua qua Ngài Chúa sẽ xét đoán các đầu cùng đất, thiết lập sự chữa lành của Ngài, trị vì bằng tình yêu thương (Công Vụ các Sứ Đồ 17:31). Lời cầu nguyện của An-ne đã mở ra Vương quốc theo một chiều hướng mới; lời cầu nguyện của Mary đẩy vương quốc đến chỗ tuyệt đích của nó. Giống như An-ne, không những Mary lạc mất trong câu chuyện lớn lao hơn về vương quốc của Đức Chúa Trời, mà nàng còn nhìn thấy câu chuyện của mình như được lồng vào câu chuyện lớn lao hơn kia.
Nếu An-ne đã học biết về quyền phép của Chúa nơi sự son sẻ của tử cung nàng và Mary đã học biết quyền phép của Chúa từ tử cung chưa có người nam nào động đến, kế tiếp Chúa Jêsus Đấng Mêsi đã học biết quyền phép của Chúa trong sự trơ trọi — sự quên lãng của Đức Chúa Trời — của đồi Gôgôtha, Chốn Đồi Sọ, và trong một ngôi mộ mà chưa ai đặt nằm ở đó.
Năng lực trong chỗ chẳng có triễn vọng
Không ai trong chúng ta có thể hoà đồng trực tiếp với Mary: chỉ có một nữ đồng trinh chịu thai bởi Đức Thánh Linh rồi cho ra đời Con của Đức Chúa Trời. Nhiều người trong chúng ta có thể hoà đồng với Mary theo nghĩa bóng: Đức Chúa Trời làm một việc lớn cho chúng ta mà chúng ta chưa hề cầu xin với, một việc, có lẽ chúng ta thậm chí không nghĩ đến nữa là. Đức Chúa Trời làm một việc lớn cho chúng ta mà chúng ta chưa hề mơ tới sẽ làm cho chính mình. Không có việc gì, ngay cả việc nữ đồng trinh mang thai, là khó khăn với Đức Chúa Trời. Có lẽ, giống như Mary, chúng ta cảm thấy mình là thứ đại biểu cấp hai, vô nghĩa, chẳng giống ai cho bất kỳ sự việc gì đặc biệt.
Chúng ta học biết về quyền phép của Đức Chúa Trời như thế nào? Cùng phương thức mà Mary đã tiếp thu: bằng cách lắng nghe những lời cầu nguyện trong Kinh thánh, ít nhất là những lời cầu nguyện của An-ne và Mary. Chúng ta tiếp thu ở đâu về quyền phép của Đức Chúa Trời? Cùng một chỗ mà Mary đã tiếp thu: trong tình trạng chẳng có triễn vọng của chúng ta, phải nói như thế, khi Đức Chúa Trời làm một việc lớn cho chúng ta mà chúng ta thậm chí chưa xem xét, cầu xin. Khi Đức Chúa Trời làm một việc lớn cho chúng ta nằm ngoài sự hy vọng, chúng ta thấy Ngài đoái đến tình trạng khiêm nhường, vô quyền của chúng ta. Khi Đức Chúa Trời Toàn Năng làm những việc lớn cho bạn, khi ấy bạn sẽ giống như Mary, tôn vinh hiển cho Chúa rồi vui mừng trong Đức Chúa Trời là Cứu Chúa của bạn. Khi bạn vui mừng trong Chúa, Ngài thêm sức cho bạn, vì, như Nêhêmi chỉ ra: “sự vui vẻ của Đức GIÊHÔVA là sức lực của các ngươi” (Nêhêmi 8:10). Vì vậy, không những bạn học biết về quyền phép của Đức Chúa Trời, mà bạn còn kinh nghiệm quyền phép ấy nữa.
Vào cuối những năm ba mươi tuổi của tôi, tôi cầu xin để có một người vợ, nhưng tôi không cầu xin một cái nhìn sâu sắc đến với tôi, ngay cả khi chẳng có hy vọng gì hết. Nếu tôi muốn lập gia đình, tôi là một người nam muốn giao thác sự sống mình cho một người nữ, vì đấy là thiết kế của Đức Chúa Trời cho những ai làm chồng (Êphêsô 5:25). Tôi chưa có người vợ nào hết. Thế rồi một lần nữa, sứ đồ Phaolô, cũng trong Êphêsô 5, gọi Hội thánh là cô dâu của Đấng Christ. Tôi ý thức được Đức Chúa Trời đang chỉ vào Hội thánh rồi nói ra một câu đại loại như sau: “Đó là nàng đấy; hãy phó sự sống ngươi cho nàng đi”. Tôi đáp: “okay”. Sau đó một thời gian ngắn, cách đây 17 năm, tôi khởi sự Nhóm Thanh Tráng tại hội thánh của chúng ta.
Vào ngày sinh nhật thứ 40 của tôi, hãy còn độc thân, tôi nhận được món quà khác ở ngoài hy vọng. Nhóm Thanh Tráng kéo tôi vào một bữa tiệc sinh nhật, và khi bữa tiệc kết thúc, một trong các thuộc viên của nhóm đến gần tôi và, trong khoảng 20 người còn ở lại, đã lưu ý: “Scott, ông đã tạo ra một gia đình ở đây!” Khi bữa sinh nhật thứ 40 của một người độc thân tạo cho người một thắc mắc mình sẽ có một gia đình hay không!?! Đức Chúa Trời đã chỉ cho tôi thấy, ở ngoài hy vọng, không những tôi có một gia đình, mà tôi còn sáng lập ra gia đình ấy nữa — và tất nhiên là với sự vùa giúp của Đức Chúa Trời. Tôi sẽ làm gì trừ ra vui mừng chứ? Vui mừng, tôi được thêm sức cho, ít nhất là tiếp tục phó sự sống mình cho cô dâu của Đấng Christ.
(Chú thích ngoài lề: Người đưa ra lời bình đó với tôi tiếp tục gặp gỡ vợ mình ở Nhóm Thanh Tráng. Tôi chỉ nhận được từ họ — và năm đứa con của họ! — tấm thiệp Giáng Sinh hàng năm. Chú thích bên lề khác: khi tôi 40 tuổi, tôi gặp một người phụ nữ bằng thịt và huyết rồi cưới nàng làm vợ một năm sau đó. Chúng tôi có hai cháu gái. Nhưng đấy là câu chuyện dành cho một ngày khác kia).
Đức Chúa Trời đã làm gì cho bạn mà bạn vốn chẳng trông đợi chứ? Hãy vui mừng trong Chúa, và bạn sẽ kinh nghiệm quyền phép của Đức Chúa Trời. Hãy vui mừng với tác giả Thi thiên: “Hỡi Israel, hãy vui mừng đi! Hãy vui mừng! Emmanuên / Sẽ đến với ngươi”.
Gửi lên và thốt ra
An-ne đã sáng tác một lời cầu nguyện rồi gửi nó lên cho Đức Chúa Trời và thốt ra cho mọi thế đại cách đây hơn ba ngàn năm. Mary đã nghe lời cầu xin của An-ne, đã sử dụng nó để sáng tác chính lời cầu nguyện của mình, nàng cũng gửi lên Đức Chúa Trời rồi thốt ra cho mọi thế đại hầu như cách đây hai ngàn năm. Mấy trăm năm sau đó, chúng ta nghe những lời cầu nguyện của người nữ son sẻ và nữ đồng trinh, và họ gặp gỡ chúng ta trong tình trạng trơ trọi thuộc linh của chúng ta và trong chỗ chúng ta chẳng mong đợi.
Chúng ta làm gì với những lời cầu nguyện của họ? Chúng ta làm theo những gì họ đã làm. Hãy xem, trước tiên, chính câu chuyện của bạn. Mặt khác, hãy xem xét tình trạng son sẻ và ta thán của bạn kìa. Mặt khác, hãy xem xét những gì Đức Chúa Trời đã làm cho bạn và hãy vui mừng. Hãy suy gẫm, cầu nguyện, và, có lẽ giống như hai phụ nữ kia, sáng tác một bài thơ/cầu nguyện. Giống như An-ne và Mary, hãy bắt đầu với chính câu chuyện của bạn. Khi bạn ta thán và khi bạn vui mừng — khi bạn thờ lạy — bạn kết nối thật sâu sắc với nhân tánh của bạn, vì là con người thì phải thờ lạy. Là con người: ta thán và vui mừng. Khi bạn nối kết sâu sắc với chỗ bạn là ai — với Đức Chúa Trời dựng nên bạn là ai — bạn đang kinh nghiệm quyền phép của Đức Chúa Trời. Hãy cảm nhận quyền phép của Đức Chúa Trời trong tấm lòng của bạn khi bạn ta thán và vui mừng, khi bạn nối kết với cái tôi sâu sắc nhất của bạn. Ta thán và vui mừng — dường như chúng giống như hai kẻ đối ngược, nhưng nói theo Kinh thánh, chúng giống như hai anh em họ xa thuộc về một gia đình: Thờ phượng.
Hãy bắt đầu với chính câu chuyện của mình, nhưng, giống như An-ne, và Mary, đừng dừng lại ở đó; hãy tự mình lạc mất trong câu chuyện lớn lao hơn nói tới vương quốc của Đức Chúa Trời. Khi bạn ta thán và vui mừng, bạn thấy mình ràng buộc với nhiều người khác, những người khác nào đang ta thán, những người khác nào đang vui mừng, những người khác nào bị son sẻ, những người khác nào có thân phận thấp hèn. Bạn muốn Đức Chúa Trời sẽ làm gì cho họ chứ? Bạn sẽ muốn Đức Chúa Trời nâng kẻ yếu lên và hạ kẻ mạnh xuống; bạn sẽ muốn Ngài đảo ngược trình tự đã lập sẵn rồi; bạn sẽ muốn Ngài làm trọn sự tể trị của Ngài, dẹp bỏ điều ác, và sửa ngay lại mọi sai lầm; và bạn sẽ muốn Ngài xét đoán các đầu cùng đất. Bạn sẽ cầu xin Ngài làm hết mọi sự nầy.
Giống như An-ne and Mary, bạn sẽ gửi một lời cầu nguyện lên trời và thốt ra cho mọi thời đại. Lời cầu xin ấy thật đơn sơ giống như lời cầu nguyện sau cùng trong Kinh thánh: “Lạy Chúa Jêsus, xin hãy đến” (Khải huyền 22:20). Liệu Đức Chúa Trời ở trên trời có nghe không? Tất nhiên là Ngài sẽ nghe đấy! Có ai ở trên đất lắng nghe, đâu đó, một năm tính từ bây giờ, một ngàn năm tính từ bây giờ, một triệu năm tính từ bây giờ? Tất nhiên có ai đó sẽ lắng nghe. Mọi người sẽ lắng nghe. Bạn sẽ lắng nghe! Khi bạn nhìn thấy Chúa Jêsus ngự đến để hoàn tất sự trị vì của Ngài, vì mọi mắt sẽ nhìn thấy Ngài, bạn sẽ có mặt ở đó để nhận lãnh chính lời cầu xin của mình. Lời cầu xin của bạn sẽ đáp đậu ngay trên chính tấm lòng của bạn.
Nếu bạn chưa gắn bó với nhà vua mà An-ne đã lường trước và Mary đã sanh hạ, bạn sẽ cầu nguyện tiếp nhận Ngài ngự vào đời sống của bạn. Rốt lại, đây là Lễ Giáng Sinh, khi chúng ta tưởng niệm sự nhập thế của Đấng Christ. Nếu bạn mời Ngài ngự vào, Thánh Linh của Ngài sẽ ngự vào đời sống của bạn và phủ lút nó với tình yêu thương. Lạ lùng thay, An-ne đã sanh hạ. Lạ lùng thay, Mary đã hạ sanh. Hãy tin nơi Chúa Jêsus, và, chẳng kém phần lạ lùng đâu, bạn sẽ được lại sanh.