Chủ Nhật, 26 tháng 12, 2010

Giấc Mơ Bất Khả Thi:Bài Ca của Thiên sứ –



Giấc Mơ Bất Khả Thi:
Bài Ca của Thiên sứ –
Luca 2:14
Khi ấy là 3 giờ sáng, hạm đội di chuyển qua bóng tối tăm của Thái Bình Dương, binh sĩ trên từng con tàu bắt đầu xôn xao. Đây là giờ, đây là giây phút của sự thật. Sự chờ đợi đã qua rồi. Cuộc chiến sắp sửa bắt đầu. Từ trung tâm hành quân dấu hiệu đã bật sáng: "Leo Núi Nataka”. Dấu hiệu ấy cho thấy cuộc tấn công bắt đầu.
Đối với một người, đây là giờ phút trọng đại mà ông ta đã từng nhìn biết. Nhiều năm trời huấn luyện cứ chực chờ, những giờ phút thao trường không tính được cứ lặp đi lặp lại mãi. Ông là người được chọn để trở thành cấp chỉ huy.
Khi Mitsuo Fuchida thức giấc, ông mặc bộ quân phục vào, dự điểm tâm, khoác lấy cái áo bay viền lông thú nặng nề. Khi ấy ông bước vào phòng hành quân để tiếp lấy phần chỉ dẫn vào phút sau cùng. Quấn dãi khăn trắng quanh vòng màu đỏ trên chiếc mũ bay của mình, ông nhảy lên chiếc phi cơ. Đúng 5 giờ 30 sáng ông cất cánh, chiếc phi cơ đầu tiên trong phi đoàn 200 chiếc máy bay. Từ boong của những hàng không mẫu hạm Hiryu, Soryu, và Atsugi, hết chiếc nầy đến chiếc khác cất cánh theo sau ông thành hai đợt cho tới chừng toàn bộ đã lên đến 350 chiếc, cuộc tấn công bằng không lực của hải quân lớn nhất trong lịch sử.
Cương lĩnh: Chịu chết vì tin vào lý tưởng
Mọi sự hướng thượng tuôn tràn từ nhận định chính xác về Đức Chúa Trời, và mọi tà giáo bắt nguồn từ sự hiểu sai về Đức Chúa Trời.
Thêm các chi tiết
Khi những chiếc phi cơ bay tốc độ qua 230 dặm phân cách chúng với đảo Oahu, không một lời trao đổi nào giữa các phi công. Cái chết là chắc chắn, quyết định đã được thực thi. Và khi Mitsuo Fuchida lướt ngang qua ngọn núi sau cùng phân cách ông với Trân Châu Cảng, ông gào lên mật khẩu đã định trước, tỏ ra hoàn toàn kinh ngạc vì mục tiêu sắp đạt được. Trong sự phấn khích ấy, ông lặp lại mật khẩu ba lần: "Tora! Tora! Tora!”
Những quả bom đầu tiên rơi xuống lúc 7 giờ 53 phút sáng, giờ Trân Châu Cảng. Lúc ấy trận đánh diễn ra, nó diễn ra thật nhanh chóng. Trong vòng một tiếng rưỡi đồng hồ, đợt thứ hai đã quay trở về lại các hàng không mẫu hạm. Thiệt hại đã được làm ra. Ở đàng sau chúng, các phi công Nhật bản để lại một đại dương bao trùm khói lửa và đổ nát. Trước khi nó kết thúc, số tử thương đã lên tới 2.403 người. Cho đến ngày hôm nay, đấy là thất bại của hải quân lớn lao nhất trong lịch sử nước Mỹ.
Cuối cùng của sự ngây thơ
Hôm ấy – ngày 7 tháng Chạp năm 1941, một ngày sống trong nhục nhã – một thế giới dãy chết và thế giới khác chào đời. Đây là sự cuối cùng của Kỷ nguyên Ngây Thơ. Ngây thơ đã qua đi cho đến đời đời, và trong một phút thê thảm, nước Mỹ đã bật tung thành kỷ nguyên hiện đại. Mãi cho tới giờ phút đó, nước Mỹ về cơ bản chỉ là gã khỗng lồ mê ngủ, các quốc gia trên thế giới cũng cho là vậy. Sau trận Trân Châu Cảng, chúng ta lại cứ thế một lần nữa. Nhưng kể từ ngày đó, và những vụ việc nối theo sau ngày đó, nước Mỹ trở thành và vẫn là một quốc gia siêu quyền lực. Khi nhận định theo ánh sáng ấy, cuộc tấn công vào Trân Châu Cảng là một sự kiện quan trọng nhất trong thế kỷ thứ 20. Đấy là một biến cố có tính chất xúc tác, một biến cố sẽ làm thay đổi toàn bộ cục điện lịch sử thế giới.
Vì Trân Châu Cảng quá nổi tiếng, nhiều người không biết có hai sự kiện lịch sử đã diễn ra trong chính tuần lễ đó. Một trong hai biến cố đã diễn ra ở vùng ngoại ô Mắccơva, lúc đó, sau một trận đánh tuyệt vọng, quân đội Nga đã đẩy lùi quân Đức. Người Nga đã chặn đứng quân Phát-xít ngay ngoài rìa thành phố. Hãy lưu ý một chút nữa, lúc bấy giờ sự thất bại của người Đức làm đổi dòng Đệ II Thế Chiến. Mãi cho tới khi ấy, kế hoạch táo bạo của Hitler đã mau chóng đánh bại người Nga, chính thức cầu hoà với Anh quốc, rồi nhơn đó giữ Hoa kỳ ở ngoài cuộc. Ông ta từng biết rõ không thể chinh phục được nước Nga, ông ta biết sự lựa chọn duy nhứt là tiến về phía Tây, mặc dù khi làm thế nước Mỹ chắc chắn sẽ tham chiến. Cho nên dòng lịch sử đã thay đổi hai ngày trước trận Trân Châu Cảng.
Nhưng như thế chưa phải là hết đâu. Biến cố quan trọng kia, hoàn toàn chẳng ai để ý và chẳng được báo cáo lúc bấy giờ, đã diễn ra tại Hoa Thịnh Đốn vào ngày trước trận Trân Châu Cảng. Ngày 6 tháng Chạp năm 1941, một uỷ ban chính phủ Mỹ, gọi tắt là S-1, hội họp ở Hoa thịnh Đốn. Chủ đề của nó: tính khả thi cho việc dựng lên một thứ gọi là bom nguyên tử.
Mọi sự đã xảy ra trong ba biến cố – gom lại thành cánh cửa sổ thời gian gồm ba ngày – không những kích động một quốc gia, mà còn làm thay đổi cán cân quyền lực và hoàn toàn tái định hướng lại dòng lịch sử nhân loại.
Từ Trân Châu Cảng đến Baghdad
Những gì đã xảy ra tại Trân Châu Cảng đã trực tiếp dẫn tới Đệ II Thế Chiến, cuộc chiến tranh đẩm máu nhất trong lịch sử thế giới. Khoảng 25 triệu người đã ngã chết. Nếu bạn chịu khó nhìn lại dòng lịch sử, bạn sẽ thấy những gì diễn ra tại Trân Châu Cảng chắc chắn đã dẫn tới Hiroshima và Nagasaki, và đề ra bối cảnh cho cuộc Chiến Tranh Lạnh, bản thân nó dẫn chúng ta tới Cuộc Chiến ở Hàn quốc, rồi hoàn toàn dẫn tới cuộc chiến ở Việt nam, cùng cuộc khủng hoảng ở vùng Trung Đông. Nói cách khác, có một dòng đầy dấu chấm trải từ Trân Châu Cảng đến Baghdad. Những gì đã khởi sự hôm qua cách đây 50 năm có những phân nhánh hiện diện với chúng ta một nửa thế kỷ sau đó.
Tôi dám chắc bạn nhận ra cái tên Leon Trotsky. Ông là một lãnh tụ nổi tiếng trong những ngày đầu sớm sủa của cuộc Cách Mạng Nga. Nhưng ông đã kết thúc với cứu cánh ngắn ngủi khi tranh giành quyền lực với Josef Stalin và bị trục xuất khỏi nước Nga vào năm 1929. Ông qua ngụ ở Mexico, ở đây ông bị các mật vụ Nga ám sát chết vào năm 1940. Trong những năm tháng lưu vong, ông đã thốt ra một câu nói rất thú vị: “Người nào tìm kiếm một đời sống bình tịnh đã chọn ra đời vào thế kỷ sai trái”. Whittaker Chambers đưa ra lời bình thích ứng với lưu ý của Trotsky. Chambers nói rằng “lời bình phải gắn với kẻ có thẩm quyền, một khi thế kỷ xác nhận vấn đề bằng cách vỗ mạnh cây búa vào cái đầu đã rập khuôn ra nó”.
Mau hơn, nhanh hơn, rẻ hơn
Vì thế, khi chúng ta đến với kỳ Giáng Sinh, năm 1991, trong những gì đã và sẽ là một năm bạo lực đổ máu. Không những chúng ta đang đến với phần cuối năm, mà còn đúng 8 năm nữa là đến cuối thế kỷ thứ 20 – qua mọi tính toán, là thế kỷ đổ máu nhiều nhất trong lịch sử nhân loại. Nhiều người đã bị giết trong nhiều cuộc chiến bởi các thứ vũ khí tinh vi hơn bất kỳ thế kỷ nào khác kể từ khi dựng nên thế gian. Chúng ta thích nói tiến bộ về kỷ thuật của chúng ta, và chúng ta thích khoe mình về việc chúng ta lên cao trên cái thang tiến hoá bao xa. Song đấy chỉ là một giấc chiêm bao mà thôi. Giờ đây, chúng ta giết chóc nhanh hơn, với hiệu quả lớn lao hơn, với ít bừa bộn hơn, với cái giá rẻ hơn nhiều. Nếu chúng ta tiến bộ hơn những thế hệ đi trước, thì chỉ ở chỗ chúng ta cùng nhau nhúng tay vào. Đấy là loại tiến bộ, chắc chắn là một mớ huyền thoại về sự cường điệu.
Những lời chúng ta dám tin
Và các thiên sứ đã hát lên vào cái đêm cách đây lâu lắm rồi: “Sáng danh Chúa trên các từng trời rất cao, bình an dưới đất, ân trạch cho loài người!” (Luca 2:14). Có bao nhiêu lần chúng ta nghe thấy lời lẽ ấy? Có bao nhiêu lần chúng ta đã nhìn thấy chúng được in lên trên những tấm thiệp Giáng Sinh? Có bao nhiêu lần bản thân chúng ta lặp đi lặp lại mấy lời đó? Hàng trăm lần. Không, hàng ngàn lần. Chúng có mặt ở giữa những lời lẽ quen thuộc nhất trong toàn bộ quyển Kinh Thánh.
Tuần nầy, tôi đã suy gẫm mấy lời nầy của thiên sứ ngược lại với tấm bích chương kỷ niệm lần thứ 50 ngày tấn công Trân Châu Cảng và mọi sự mà nó muốn nói tới. Khi tôi nghĩ đến mấy câu thường được lặp đi lặp lại nầy, tôi cố gắng nhìn xem chúng với ánh mắt tươi mới hơn, giống như thể tôi chưa từng nghe đến chúng trước đây vậy. Tôi cố gắng hình dung xem mình đã cảm nhận thể nào nếu tôi không phải là một Cơ đốc nhân và ai đó đã trưng dẫn mấy lời nầy với tôi. Kết luận của tôi là như vầy đây: Nếu tôi nghe mấy lời nầy lần đầu tiên, chúng sẽ gây ấn tượng mạnh mẽ như biểu lộ rằng chẳng có gì phải làm với thế giới thực nầy. Tôi muốn kết luận rằng chúng không thể là hiện thực được. Vì nếu có cái gì rõ ràng là sự thực, ấy là chúng ta không có hoà bình ở trên đất hôm nay và chúng ta không có thiện ý tốt lành gì đối với loài người. Và thực vậy, dường như chúng ta chẳng đến gần với hoà bình hay đến gần chút nào với thiện ý cả.
Khi tôi suy gẫm sâu xa hơn, tôi nhận ra rằng mấy lời nầy chứa ba lời hứa gắn trực tiếp với sự đến với trần gian của Đấng Christ. Thứ nhứt là Sáng Danh Chúa Trên Các Từng Trời Rất Cao. Thứ hai là Bình An Dưới Đất. Thứ ba là Ân Trạch Cho Loài Người. Tôi nghĩ, hoàn toàn là khả thi nếu bạn phân tích những vụ việc từ nhận định của con người thì thấy chỉ có một trong ba điều đó là sự thực mà thôi. Ấy là Sáng Danh Chúa Trên Các Từng Trời Rất Cao. Rốt lại, chúng ta không hề với tới lãnh vực “các từng trời rất cao” đó. Một khi chúng ta không tiếp cận được, chúng ta chẳng có cách nào để biết rõ làm sao để lên tới đó. Cái điều hoàn toàn khả thi, ấy là Đức Chúa Trời được sáng danh trên các từng trời rất cao. Chúng ta không thể nhìn thấy sự việc ấy, vì vậy chúng ta không biết chắc. Phần chúng ta, chẳng phải quan tâm về sự ấy.
Chính hai phần kia là điều mà chúng ta phải suy nghĩ đến. Bình an dưới đất – nó ở đâu vậy? Ân trạch cho loài người – tôi không nhìn thấy ân trạch ấy.
13 năm chiến tranh – 1 năm hoà bình
Theo một bài viết trong Tập san Quân sự Canada, một cựu chủ tịch sinh viên khoa học người Na-uy, được tài trợ bởi các sử gia từ Anh quốc, Ai-cập, Đức quốc, và Ấn độ, họ thu thập những dữ liệu và tìm thấy:
Kể từ năm 3600TC, thế giới chỉ biết đến 292 năm hoà bình. Trong khoảng thời gian nầy, đã có 14.531 cuộc chiến, lớn và nhỏ, trong đó 3.640.000.000 người đã ngã chết. Giá trị của sự hủy diệt sẽ phải trả giá bằng một cái đai vàng trải khắp thế giới với bề rộng 97 dặm và bề dày 33 feet. Thêm nữa, kể từ năm 650TC, đã có 1.656 cuộc đua vũ trang, chỉ có 16 cuộc trong số đó đã kết thúc trong chiến tranh. Số còn lại đã kết thúc trong sự suy sụp kinh tế nơi những quốc gia liên đới (một việc mà chúng ta đang nhìn thấy trong sự tan rã hiện nay của Liên Bang Sô Viết).
Nói theo cách khác, trong lịch sử thế giới chúng ta đã nhìn thấy 13 năm chiến tranh cho một năm hoà bình. Kể từ lúc bắt đầu thời gian, hơn 8.000 hiệp ước hoà bình đã được ký kết. Mặc dù có hiệu lực cho đến đời đời, tuổi thọ trung bình có hiệu lực là 2 năm (Tự điển bách khoa 7700 hình ảnh minh họa, p. 1571)
Phước cho nhân loại
“Bình an dưới đất, ân trạch cho loài người”. Đúng đây là một giấc mơ bất khả thi? Có nhiều lý do để trả lời “Đúng”.
“Phước cho nhân loại, Chúa ta ra đời”.
Tuần nầy chúng ta đến với bối cảnh William Kennedy Smith bị xét xử về hiếp dâm, nơi một phụ nữ đưa ra những lời tố cáo khủng khiếp về những gì đã xảy ra đêm hôm ấy tại Palm Beach. Một số sự việc sinh động đến nỗi chúng làm cho người ta nghe giống như buổi picnic của lớp trường Chúa nhựt vậy.
“Kìa Thiên Binh Cùng Vang Tiếng Hát. Chúc Thánh Đế Mới Sanh Trên Đất”.
Họ nói rằng Alann Steen bị những kẻ bắt anh ta đánh đập tồi tệ quanh đầu đến nỗi anh ta sẽ bị loạn óc vĩnh viễn. Và Joseph Cicippio chịu khổ do nhiễm lạnh thường xuyên vì trong hai mùa đông dài, những kẻ bắt anh ta đã xích anh ta ở ngoài cửa. Đấy là cách xử sự mà bạn sẽ không dám làm cho thú vật.
“Hỡi Môn Đồ Trung Tín. Dìu Dắt Nhau Vui Hát Du Dương”.
Tuần nầy Richard Speck đã qua đời. Ông là nhân vật đã đưa cụm từ “Giết Người Hàng Loạt” vào cách sử dụng phổ thông. Có thể ông là gã tội phạm khét tiếng nhứt trong lịch sử Chicago. Richard Speck – là kẻ đã giết tám sinh viên điều dưỡng cách đây 25 năm – đã sống trong cô độc đến cuối đời, vì gia đình ông ta từ chối lấy xác khi ông chết.
“Đêm Xuống Êm Đềm, Chuông Thánh Vang Rền, Lướt Lướt Êm Qua Bao Miền”.
Từ trang bìa của tạp chí Sun-Times: Một Thượng Nghị Sĩ tiểu bang đã bị kết án ăn hối lộ. Giờ đây ông ta đối mặt với án tù và phải nộp phạt hàng trăm ngàn đôla.
“Chúa Thánh Giáng Sinh Nơi Máng Chiên Cô Đơn Nghèo Nàn”
“Chốn Jêsus nằm tăm tối”
Chôn vùi trong mọi tin tức khác là một tường trình không hay đến từ nước Nga. Họ nói rằng những tình trạng đói kém giờ đây đang có mặt ở nhiều nơi của Liên Bang Sô Viết. Và một số lãnh đạo quân sự công khai loan báo việc làm táo bạo khác. Anatoly Sobchak, thị trưởng cải cách của thành phố St. Petersburg, nhất trí và nói rằng lần nầy chiến dịch sẽ thành công vì dân chúng sẽ ủng hộ nó, vì họ đang tuyệt vọng về thực phẩm, quần áo và nơi trú ẩn chống lại cái lạnh của mùa đông.
“Hoà Bình Dưới Đất, Hỉ Hân Cho Người Vì Hôm Nay Jêsus Đến”
Vào ngày thứ Sáu, trong cuộc tình tay ba, một cảnh sát viên Chicago đã bắn viên cảnh sát khác ngã chết, sau đó lái xe đến bãi đậu xe ở Nam Chicago rồi tự sát.
“Hỡi Bếtlêhem, Tiểu Thôn Cô Quạnh, Bình Yên Bấy Trong Vùng Ngươi”.
Tuần nầy ở Chicago, hai đứa trẻ sanh đôi bốn tuổi bị nhốt trong một căn buồng nhỏ, bà và mẹ chúng bỏ chúng lại đơn độc ở đó. Không biết sao chúng tìm được mấy que diêm rồi bị thiêu cho đến chết. Bà và Mẹ chúng đã bị bắt vì lơ đểnh phạm tội.
Bình an dưới đất – Nó ở đâu? Ân trạch cho loài người – Tôi không thấy điều đó.
Nếu bạn suy gẫm lời nói của Chúa Jêsus theo ánh sáng của những gì thực sự đang xảy ra ở chung quanh bạn, chúng cho thấy đây là một trường hợp kinh điển về sự cường điệu quá mấu. Đây là một lầm lỗi đặc thù của kẻ rao bán hàng. Bạn hứa hẹn quá tải và chẳng có gì để trình ra. Chuyện nầy xảy ra lúc nào cũng có.
Chắc chắn, Ngài sẽ đem lại sự bình an trên đất. Nhưng chúng ta đã trông đợi cả 2.000 năm rồi.
Chắc chắn, Ngài sẽ đem lại ân trạch cho loài người. Ồ, mong sao cho điều đó xảy ra.
Điều đó đưa chúng ta đến với thắc mắc tối hậu. Mấy lời nầy chúng ta ca hát, trao đổi và nhắc lại luôn miệng trong kỳ lễ Giáng Sinh. Chúng có thực sự là thật không? Chúng ta có thực tin theo chúng không? Hay đấy chỉ là lối nói nước đôi trong tôn giáo?
Cho phép tôi đưa ra thắc mắc theo cách nầy:
1. Nếu Đấng Christ đến để đem lại sự bình an trên đất, tại sao còn có nhiều hận thù và ít hoà bình như thế chứ?
2. Nếu Đấng Christ đến để đem ân trạch cho loài người, tại sao lời hứa Giáng Sinh chưa ứng nghiệm sau 2.000 năm?
Không những đây là những thắc mắc của một nhà phê bình sốc nổi. Đây là những thắc mắc thành thật, đúng đắn. Chúng đòi hỏi những giải đáp thật hợp lý.
Hai giải đáp khả thi
Vì vậy, đây là việc tôi đang thực hiện trong tuần nầy – suy gẫm những thắc mắc nầy và phải lo giải đáp chúng. Những thắc mắc rất chân thành xứng đáng với những giải đáp cũng rất là chân thành. Và tôi có hai giải đáp mà tôi rất muốn chia sẻ với bạn đây.
I. Bình an không đến với đất là vì tình trạng của tấm lòng con người.
Tiên tri Giêrêmi đã nói về tấm lòng đó theo cách nầy: “Lòng người ta là dối trá hơn mọi vật, và rất là xấu xa: ai có thể biết được?” (Giêrêmi 17:9). Nói như thế có nghĩa là tấm lòng của bạn rất gian ác và tấm lòng của tôi cũng thế. Câu Kinh Thánh ấy muốn nói rằng hết thảy chúng ta dám làm những việc kinh khủng nhất không thể tưởng tượng được. Chúng ta sẽ lừa đảo, chúng ta sẽ dối trá, chúng ta sẽ trộm cướp, và phải, chúng ta sẽ giết người nữa. Thường thì việc duy nhứt giữ chúng ta lại chẳng gì khác hơn sự thực là chúng ta sợ bị bắt. Hay xã hội chúng ta dạy rằng phải biết kềm giữ lại, đừng để lộ bản chất của chúng ta. Hoặc có thể là chúng ta không có cơ hội để phạm vào từng tội lỗi mà chúng ta mơ tưởng đến.
Hết thảy chúng ta tự nhiên thiên về với vật chất, ích kỷ, tham lam, và lấy cái tôi mình làm trọng. Hết thảy chúng ta sẽ nói ra những việc kinh khủng về người khác nếu chúng ta bị kích động đúng mức. Và hết thảy chúng ta sẽ nắm lấy phần bạo lực nếu chúng ta bị đẩy đến bờ vực. Hết thảy chúng ta sẽ phạm vào những tội ác khủng khiếp nếu chúng ta bị đặt vào đúng hoàn cảnh. Chúng ta sống thật dại dột nếu chúng ta nghĩ đến bất cứ điều chi khác là thực.
Vấn đề thực chính là tình trạng phổ quát của tấm lòng con người.
Điều nầy dẫn tôi đến một điểm quyết định, quyết định cho cái ngày đặc biệt nầy. Nếu bạn nghĩ bài học thực sự của Trân Châu Cảng dẫn tới chỗ chúng ta thù hận người Nhật vì họ không cứ cách nào đó tệ lậu hơn chúng ta, bạn đã quên điểm phổ quát kia rồi. Nan đề bạo hành và xung đột không phải là vấn đề người Nhật bản. Đấy chẳng phải là nan đề của người Mỹ. Đó là nan đề của cả nhân loại.
Nếu bạn muốn biết điều chi sai lầm với thế giới ngày nay, hãy nhìn vào gương đi! Nan đề là bạn, nan đề là tôi, nan đề là hết thảy chúng ta ghép chung lại.
Vào một ngày giống như ngày hôm qua, chúng ta muốn nhìn vào bản thân mình rồi nói chúng ta tốt lành là dường nào, và họ xấu xa là bao. Nhưng họ không tệ lậu hơn chúng ta vì họ chẳng khác gì với chúng ta. Chúng ta giống nhau nhiều hơn là chúng ta khác nhau. Chúng ta dự vào cùng một bản chất cơ bản của con người.
Khi bạn phân tích qua mọi sự rồi, câu trả lời rất rõ ràng: Chẳng có bình an dưới đất là vì chúng ta không phải là hạng người ưa thích hoà bình. Chúng ta không phải là hạng người đầy dẫy sự bình an. Chúng ta là hạng người đầy dẫy giận dữ, đầy dẫy hận thù, đầy dẫy tư dục và đầy dẫy tham lam.
Chúng ta có nhiều nan đề thì chẳng có gì phải ngạc nhiên. Chúng ta giết chóc nhau, chẳng có gì phải ngạc nhiên. Chẳng có bình an gì dưới đất, chẳng có gì phải ngạc nhiên.
Con đường bình an mà họ chẳng biết
Có những lời lẽ quen thuộc ở Rôma 3:10-17:
Chẳng có một người công bình nào hết, dẫu một người cũng không. Chẳng có một người nào hiểu biết, Chẳng có một người nào tìm kiếm Đức Chúa Trời. Chúng nó đều sai lạc cả, thảy cùng nhau ra vô ích. Chẳng có một người làm điều lành, dẫu một người cũng không. Họng chúng nó như huyệt mả mở ra; Dùng lưỡi mình để phỉnh gạt. Dưới môi chúng nó có nọc rắn hổ mang. Miệng chúng nó đầy những lời nguyền rủa và cay đắng. Chúng nó có chân nhẹ nhàng đặng làm cho đổ máu. Trên đường lối chúng nó rặc những sự tàn hại và khổ nạn. Chúng nó chẳng hề biết con đường bình an.
Nếu chưa có sự bình an nào trên đất hôm nay … nan đề không phải đặt nơi Chúa Jêsus. Nan đề không có với Ngài đâu. Nan đề đang có với chúng ta đây. Chúng ta là nguyên nhân chẳng có sự bình an nào hết ở trên đất. Nan đề tối hậu là tình trạng phổ quát của tấm lòng con người.
Khi mọi lời hứa của Ngài đã được thốt ra, chúng sẽ được ứng nghiệm cách hoàn toàn. Khi những nguyên tắc của Ngài được đưa vào thực hành, thực sự sẽ có sự bình an ở trên đất.
Nan đề không đặt nơi Chúa Jêsus. Nan đề đang đặt nơi bạn và tôi.
Có câu trả lời thứ hai giúp cho chúng ta hiểu rõ lý do tại sao, sau 2.000 năm, lời hứa Giáng Sinh vẫn còn chưa ứng nghiệm.
II. Bình an đến với trần gian mỗi lần một tấm lòng.
Chương trình của Đức Chúa Trời là đem sự bình an đến trên đất bằng cách cảm động từ lòng đến lòng. Chương trình của Đức Chúa Trời không phải đến với người ta theo số đông. Chương trình của Ngài là đến với con người từng người một.
Theo ý nghĩa đó, chẳng có một việc gì là hoà bình theo kiểu gây tiếng vang. Chẳng có một việc gì là hoà bình theo kiểu quốc gia. Chỉ có những người nam người nữ nào yêu hoà bình, và những người nam người nữ nào yêu chiến tranh. Không may thay, dường như vẫn còn có nhiều người ưa chiến tranh hơn số người yêu hoà bình.
Đức Chúa Trời là một Đấng hoà nhã trọn vẹn. Nếu bạn quyết mình sẽ nổi giận, Ngài sẽ để cho bạn cứ giận. Nếu bạn quyết mình sẽ cay đắng, Ngài sẽ để cho bạn cay đắng. Nếu bạn quyết mình sẽ ưa chê bai, phê phán, Ngài sẽ để cho bạn đi theo lối đó. Nếu bạn quyết mình sẽ có thành kiến với ai đó, Ngài sẽ để cho bạn cứ thành kiến. Nếu bạn quyết mình sẽ bạo động, Ngài sẽ để cho bạn bạo động. Là một Đấng hoà nhã trọn vẹn, Đức Chúa Trời tôn trọng ý chí tự do của bạn.
Đấy là lý do tại sao sứ điệp bình an không đến qua những hội nghị hoà bình, dù những hội nghị ấy là tốt đấy. Sứ điệp bình an mỗi lúc được rải ra cho một tấm lòng, mỗi lần một người. Bạn có nhớ bài hát từ thập niên 60 ghi rằng: “Nguyện sự hoà bình ở trên đất, và nó bắt đầu với tôi" không?
Đấy là phương thức sự bình an được rao ra. Từ tấm lòng của bạn đến tấm lòng của tôi và từ chúng ta đến với nhiều người khác.
Có người xướng như sau: “Đấy là cách thức rất chậm khi đem sự bình an đến trên đất. Chẳng có phương án nào hay hơn sao?” Câu trả lời rất đơn giản. Đây là một chương trình chậm chạp, nhưng đường lối của Đức Chúa Trời là đường lối duy nhứt đang vận hành.
Ông ta ghét người Nhật
Chúng ta giờ đây trở lại với Trân Châu Cảng. Một vài tháng sau cuộc tấn công và nước Mỹ đang tìm cách lần trở lại từ thất bại đau đớn đó. Chúng ta tái vũ trang và sẵn sàng cho mọi sự – chiến tranh trên Thái Bình Dương. Một nhân vật có tên là Tướng Jimmy Doolittle được chọn để chỉ huy cuộc không kích lúc ban ngày trên thành phố Đông Kinh. Về mặt quân sự, không kích có ít tác động trên chiến tranh, nhưng nó có tác động quan trọng trên cả người Nhật và sự suy nghĩ của người Mỹ. Nó làm tăng uy thế tinh thần của chúng ta và gửi một dấu hiệu cho người Nhật biết rằng họ không được an toàn trên cái tiền đồn gồm những hòn đảo đó. Không may thay, những chiếc phi cơ hết nhiên liệu không thể thực hiện phi vụ phải đáp khẫn xuống đường băng của đồng minh Trung Hoa. Một trong những người rơi vào tình trạng đó là Jake DeShazer. Ông đã bị bắt làm tù binh gần bốn năm. Trong suốt thời gian đó, ông bị đánh đập, bị đối xử tàn tệ, và gần như bị bỏ đói hòng chết nữa. Qua sự thừa nhận của chính ông, ông gớm ghét người Nhật với sự hận thù sôi sục lắm. Ông thù những gã lùn Nhật bản với màu da vàng sởn tóc gáy đó. Ông thù ghét khi nhìn đến họ. Ông không hể chịu được ngôn ngữ của họ.
Khi những người Mỹ trong trại tù binh xin thứ gì đó để đọc, họ đã được trao cho một quyển Kinh Thánh Anh ngữ – 14 tháng sau đó. Kinh Thánh được trao cho trước tiên là các sĩ quan, nhưng chắc chắn Kinh Thánh cũng đã được trao cho Jake DeShazer. Lần đầu tiên trong đời, ông đã đọc Kinh Thánh. Khi ông đọc đến câu chuyện nói tới Chúa Jêsus, sứ điệp tha thứ dường như phủ lút ông. Rồi ở đó, ở một trại tù binh của người Nhật tại Trung Hoa, Jake DeShazer đã dâng lòng mình cho Đức Chúa Jêsus Christ. Qua sự làm chứng của chính ông, trong giây phút được biến đổi đó, mọi giận dữ đã biến đi hết. Tất cả sự thù hận không còn nữa. Mọi oán hờn đà tan biến. Thậm chí ông đã khởi sự yêu thương những tên lính gát Nhật bản kia nữa là.
Sau khi cuộc chiến qua rồi, Jake DeShazer trở về Hoa kỳ, đăng ký vào Trường Đại Học, rồi sau đó sang Nhật trong vai trò giáo sĩ, ở đó ông đã giảng đạo và viết những chứng đạo đơn Tin Lành.
“Tôi là một tù binh của Nhật bản”
Năm ấy là năm 1945. Và người Nhật cũng đang tìm cách hồi phục lại cuộc sống của họ. Mitsuo Fuchida đã được giải ngũ ra khỏi quân đội, ông ta trở về lao động trên nông trang của gia đình. Những ngày làm phi công chiến đấu đã qua đi mất rồi. Trong một thời gian ngắn, ông nghĩ mình sẽ bị xét xử như tội phạm chiến tranh, nhưng thay vì thế, ông được kêu gọi làm một nhân chứng, ông không hề bị tố cáo về bất cứ một tội phạm chiến tranh nào hết.
Năm 1950, Mitsuo Fuchida lên xe lửa đến thành phố Đông Kinh. Khi ông đi ngang qua sân ga, có người trao cho ông một quyển sách nhỏ. Ông liếc mắt nhìn vào đề tựa – "Tôi là tù binh của Nhật bản" – và bỏ quyển sách ấy vào túi áo. Ông nghĩ đây là một câu chuyện khác nói tới tính hung bạo của người Nhật.
Chẳng phải như thế đâu! Đây là câu chuyện của Jake DeShazer cho thấy làm thể nào ông đã đến với Đấng Christ. Khi ông đọc xong câu chuyện đó, ông thấy rất lôi cuốn. Câu chuyện ấy kể lại về một người từng thù ghét người Nhật, song giờ đây đã dâng đời sống mình đến với họ vì cớ Đức Chúa Jêsus Christ. Quyển chứng đạo đơn đã khiến cho Mitsuo Fuchida tìm một quyển Kinh Thánh rồi bắt đầu đọc nó. Là một tín đồ Phật giáo, quyển sách, mọi sự trong đó đều mới mẻ đối với ông. Ông say đắm với câu chuyện nói tới Đức Chúa Jêsus Christ, đặc biệt qua câu chuyện nói tới sự đóng đinh trên thập tự giá, và đặc biệt nhất bởi những lời nói từ trên thập tự giá – "Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết mình làm điều gì”.
Đây đúng chính xác là lời lẽ của Mitsuo Fuchida:
Tôi có ấn tượng rằng mình là một trong những kẻ được Ngài cầu thay cho. Nhiều người tôi đã giết đã tàn sát với danh nghĩa yêu nước, vì tôi không hiểu nổi tình yêu mà Đấng Christ muốn cấy ở trong từng tấm lòng.
Ngay giây phút ấy, dường như tôi đã gặp được Chúa Jêsus lần đầu tiên. Tôi hiểu ý nghĩa sự chết của Ngài là một sự thay thế cho tình trạng gian ác của tôi, và vì vậy trong sự cầu nguyện, tôi đã cầu xin Ngài tha thứ mọi tội lỗi của tôi và thay đổi tôi từ một cựu phi công cay đắng, bị ám ảnh thành một Cơ đốc nhân cân đối với mục đích trong cuộc sống.
Ngày ấy, ngày 12 tháng 4 năm 1950, trở thành ngày thứ nhì “để nhớ” trong cuộc đời tôi (Moody Monthly, December, 1971, p. 29)

Khi tin tức nói tới sự biến đổi của ông được lan ra, bạn bè và các thành viên trong gia đình đều bị sốc. Đã có những dòng tít lớn đăng như sau: “Anh Hùng Trân Châu Cảng Cải Đạo Sang Cơ Đốc Giáo”. Những người bạn trong chiến tranh cũ đến gặp ông, họ tìm cách thuyết phục ông từ bỏ cái ý đồ điên rồ đó.
Nhưng họ không thể. Và vì thế, nhân vật chỉ huy cuộc tấn công vào Trân Châu Cảng đã trở thành một Cơ đốc nhân, và là một vị giáo sĩ bùng cháy cho Tin Lành của Đức Chúa Jêsus Christ.
“Gomenasai”
Câu chuyện của tôi chưa kết thúc đâu. Chúng ta quay lại năm 1941. Lần nầy chúng ta đến với một thanh niên 19 tuổi từ Brockton, Texas có tên là Joe Morgan. Anh lớn lên là một tín đồ Báptít và ở một thời điểm đã cảm thấy Đức Chúa Trời kêu gọi mình làm một nhà truyền đạo. Nhưng những chương trình đó bị gạt qua một bên khi anh tham gia vào hải quân để nhìn xem cả thế giới. Khi cuộc tấn công đến, anh bị tê liệt vào lúc đầu nhưng rồi đã chụp lấy khẩu súng và khởi sự nhã đạn tấn công vào người Nhật. Anh đã ở lại đó suốt cả ngày đêm chờ đợi những chiếc máy bay quay trở lại, nhưng chúng không còn trở lại nữa.
Sau cuộc chiến, Joe Morgan trở lại với viện thần học và anh cũng trở thành một nhà truyền đạo nữa. Bạn nghĩ xem Hội thánh đầu tiên của anh là ở đâu chứ? Ở Hawaii.
Nhưng trong bài làm chứng của anh, anh đã phấn đấu trong nhiều năm trời với thù hận dành cho người Nhật. Anh không thể tha thứ cho họ vì những gì họ đã làm tại Trân Châu Cảng. Anh thù họ vì sự tàn bạo trên Thái Bình Dương. Anh nói: “Khi chúng ta thả trái bom nguyên tử xuống đảo Hiroshima, tôi vui lắm. Tôi rất sung sướng vì chúng ta đã giết nhiều người hơn họ”.
Nhiều năm tháng trôi qua, và anh vẫn là Mục sư trên đảo Oahu, ăn nuốt với giận dữ và cay đắng. Thế rồi đến năm 1956, một người bạn đến nói với anh về vị khách bất thường sẽ đến giảng tại Hội thánh Giám Lý tại địa phương. Đây là nhân vật đến từ Nhật có tên là Mitsuo Fuchida, là người đã chỉ huy cuộc tấn công vào Trân Châu Cảng.
Với chủ nghĩa phê phán nặng nề, Joe Morgan đến nghe Fuchida giảng. Sau đó ông đối mặt với Fuchida rồi nói cho ông ấy biết ông đã có mặt trên chiến trường Trân Châu Cảng. Fuchida cúi đầu xuống gật nhẹ, rồi tử tế nói Gomenasai, có nghĩa là “Tôi xin lỗi”. Khi ấy người chỉ huy cuộc tấn công chìa tay ra cho người đang tìm cách để giết. Hãy để cho Joe Morgan thuật lại phần còn lại của câu chuyện bằng chính lời nói của ông:
Khi ông ấy chìa tay ra bắt tay tôi, tôi kinh nghiệm được phép lạ của cả cuộc đời tôi. Giận dữ và thù hận như đi đâu hết rồi vậy. Đức Chúa Trời đã khiến tôi biết tha thứ (USA Today, Friday, December 6, 1991, p. 2A)
Đúng là một câu chuyện nói tới ân điển của Đức Chúa Trời. Nó khởi sự trên boong của một chiếc hàng không mẫu hạm Nhật bản. Nó dẫn tới người tù binh của quân Nhật tại Trung hoa. Nó tiếp tục tại sân ga của trạm xe lửa Nhật bản. Nó lên tới cao điểm tại một nhà thờ Giám lý ở Hawaii 11 năm sau đó.
Kẻ thù của tôi, bạn hữu tôi
– Jake Deshazer, là kẻ thù ghét người Nhật đã tìm gặp Đấng Christ trong một trại tù binh.
– Mitsuo Fuchida nhân vật đã chỉ huy cuộc tấn công vào Trân Châu Cảng đã tìm gặp Đấng Christ sau khi đọc chứng đạo đơn của Jake DeShazer.
– Joe Morgan là người có mặt trên chiến trường Trân Châu Cảng đã tìm được sự tự do không còn thù hận nữa khi ông gặp Mitsuo Fuchida.
Đây là một bài làm chứng cho quyền phép của Đức Chúa Jêsus Christ phục hoà lại những cựu thù rồi đổi họ thành bạn hữu.
Một điểm sau cùng. Điều gì đã xảy ra cho Joe Morgan? Trong những năm sau đó, khi ông trở thành Giám Mục cho Hội Những Người Còn Sống Sót Sau Trận Trân Châu Cảng. Và ngày hôm qua – chính xác 50 năm sau cuộc tấn công ấy – khi Tổng Thống Bush phát biểu tại Nghĩa Trang Quốc Gia nói về Thái Bình Dương, Joe Morgan đã dâng lên lời cầu nguyện.
Có việc gì là bình an ở dưới đất không? Câu trả lời là Có. Nhưng sự bình an mà Chúa Jêsus ngự đến để mang lại không phải đạt được trên bàn hội nghị hay trên mũi dao găm. Sự bình an của Ngài đi từ lòng đến lòng.
Sứ điệp của thiên sứ là thật đấy. Có một việc là bình an và ân trạch cho loài người đấy. Nó đến khi Đức Chúa Jêsus Christ ngự vào một đời sống.
Có thể có sự bình an của Ngài trong kỳ lễ Giáng Sinh không? Được chứ!
Có thể nào những cựu thù được phục hoà lại và những kẻ thù hận nhau một thời lại yêu thương nhau và tha thứ !?!
Cái bóng của quá khứ
Tôi biết rằng tôi đang nói tới một số người lo sợ kỳ lễ Giáng Sinh năm nay. Bạn sợ mùa lễ vì bạn chẳng có chút bình an nào ở trong lòng mình. Lễ Giáng Sinh đối với bạn có nghĩa là nạo vét hết mọi ký ức xưa, hết thảy bóng ma, những bộ xương khô đó, thảy chúng ra khỏi căn buồng của bạn lần nầy trong năm. Bình an là việc xa xôi nhất đối với lý trí của bạn.
Nếu bạn từng mở lòng ra cho Đức Chúa Jêsus Christ một cách hoàn toàn và chẳng chút e dè, Ngài sẽ ngự vào rồi dời đi hết nổi thù hận và sự cay đắng. Ngài có thể chuộc hết mọi nổi đau thương trong quá khứ.
Tôi cầu nguyện cho bạn trong kỳ lễ Giáng Sinh, xin sự bình an của Đức Chúa Jêsus Christ sẽ trở thành sự bình an của bạn. Tôi cầu xin bạn sẽ mở lòng mình ra cho Đức Chúa Jêsus Christ theo một cách mới để bạn sẽ có kinh nghiệm riêng về sự bình an trên đất, ân trạch cho loài người.
Lạy Chúa Jêsus, chúng con ao ước được kinh nghiệm thực tại sự hiện diện của Ngài. Đối với một số người trong chúng con, bình an dường như quá xa vời. Chúng con ao ước được đến gần Ngài, và nguyện sự bình an của Ngài đầy dẫy tấm lòng chúng con. Xin giúp chúng con bỏ đi sự cay đắng, giận dữ và tức tối. Xin giúp chúng con biết tha thứ y như Ngài đã tha thứ, và đầy dẫy sự bình an của Ngài trong năm nay tại mùa lễ Giáng Sinh. Amen.

Máng cỏ và thập tự giá: Bài ca của Simêôn –



Máng cỏ và thập tự giá:
Bài ca của Simêôn –
Luca 2:25-35

Đấy là một thắc mắc tốt, có phải không? Nếu Chúa Jêsus ra đời hôm nay, thì có gì khác biệt với sự ra đời cách đây 2.000 năm? Chúng ta thích nghĩ câu trả lời là có, chúng ta sẽ sẵn sàng, chúng ta sẽ không phạm lỗi lầm trong việc xua Con Đức Chúa Trời đi. Sẽ có phòng trong nhà quán của chúng ta, chúng ta dám nói như thế. Chúng ta sẽ tìm phòng, hay sắm sửa căn phòng đó, hoặc chúng ta ném ai đó ra khỏi phòng của họ, nhưng trong bất kỳ trường hợp nào, chúng ta sẽ sẵn sàng nếu Chúa Jêsus ra đời ở Chicago.
Nhưng đấy có phải là sự thật không? Có phải chúng ta sửa soạn nhiều cho sự đến của Đấng Christ hơn là họ được sửa soạn ở Bếtlêhem không? Đấy mới thực là câu đáng hỏi.
Dường như là khi bạn đọc Kinh Thánh, thì thấy hầu hết ai nấy đều chẳng sửa soạn cho sự đến của Ngài. Hêrốt chắc là không rồi, mấy thầy thông giáo cũng thế (dù họ biết rõ nơi Ngài ra đời). Người giàu và kẻ có quyền lực ở thành Bếtlêhem (giả sử là như thế) dường như chẳng chút chú ý gì đến đôi vợ chồng trẻ đến từ thành Naxarét. Bậc vua chúa của trần gian không hề biết Ngài ra đời. Nhiều người không hề biết Ngài sống hay chết. Bởi các tiêu chuẩn của trần gian, sự ra đời của Ngài chỉ là một đốm sáng trên màn hình rađa của lịch sử, một đứa trẻ nhà quê ra đời cho bố mẹ quê mùa. Ở Rome, họ chẳng chút để ý đến; ở Athens và Alexandria chẳng ai hề chú ý. Ở Trung quốc và Ấn độ chẳng ai biết chi hết.
Phillips Brooks đã nói về vấn đề nầy như sau: “Yên lặng, yên lặng dường nào, món quà kỳ diệu đã được ban cho”. Ngài đã đến trong yên lặng, thật yên lặng (yên lặng như một trẻ sơ sinh mới chào đời), chẳng có ồn ào hay om sòm, chẳng có chút gì huyên náo hay công bố sự hiện diện của Ngài. Ngài đã đến theo cùng một cách với bao đứa trẻ khác, và hầu hết thế gian chẳng có ai chú ý đến. Sứ đồ Giăng nói theo cách nầy: “Ngôi Lời ở thế gian, và thế gian đã làm nên bởi Ngài; nhưng thế gian chẳng từng nhìn biết Ngài. Ngài đã đến trong xứ mình, song dân mình chẳng hề nhận lấy” (Giăng 1:10-11). Điều chi thuộc về Ngài? Thế gian thuộc về Ngài, tuyển dân thuộc về Ngài, xứ sở thuộc về Ngài. Chính dân sự ấy phải hạnh phúc nhất khi gặp Ngài, thay vì thế, họ chẳng chút chú ý gì hết.
Nhóm kín trong xứ
Nhưng đấy chẳng phải là toàn bộ câu chuyện. Thực sự, cả xứ là một tổng thể chẳng sẵn sàng cho sự ra đời của Ngài, đã có một vài người biết sẵn sàng. Mấy thầy bác sĩ là một tấm gương tốt. Hết thảy họ đã đi suốt từ Ba tư đến để chào đón nhà Vua còn thơ ấu. Họ đại diện cho một số lớn dân Ngoại biết sẵn sàng tiếp nhận Chúa Jêsus với sự vui mừng, phấn khởi và kỉnh kiền. Nhưng ngay cả với Israel, đã có những người tin thời gian đã đến gần cho Đức Chúa Trời sau cùng giữ lấy mọi lời hứa của Ngài mà sai Đấng Mêsi đến với trần gian.
Giữa vòng họ là một nhóm được biết là Nhóm Kín Trong Xứ. Họ là một nhóm người có tổ chức, họ tránh mưu đồ về chính trị và hành vi bạo động. Họ từ chối không dính dáng với những phong trào lo lật đổ quyền thống trị của Lamã. Qua sự tin kính và cầu nguyện, họ hy vọng sẽ ở tư thế sẵn sàng khi Đấng Mêsi sau cùng ngự đến trên bối cảnh.
Luca thuật lại câu chuyện nói tới một người là chi thể của nhóm kín ở trong xứ. Tên của ông là Simêôn. Ông đã trông đợi nhiều năm trời muốn nhìn thấy Đấng Mêsi, và khi ông gặp Con Trẻ Jêsus, ông biết sự trông đợi lâu dài của mình sau cùng đã qua đi.
Những ngày tinh sạch
Chúng ta mở câu chuyện ở Luca 2:21-24.
Đến ngày thứ tám, khi đến lúc phải làm phép cắt bì cho Con Trẻ, Ngài được đặt tên là Jêsus, là tên thiên sứ đã đặt trước khi được thai dựng.
Khi thời gian tinh sạch của họ theo luật pháp Môise đã hoàn tất rồi, Giôsép và Mary đem Ngài lên thành Jerusalem để dâng cho Đức Giêhôva (như đã được chép trong luật pháp của Đức Chúa Trời: “Mỗi con trai đầu lòng phải được dâng cho Đức Giêhôva"), và dâng một của lễ khi tuân giữ những gì đã được dạy dỗ trong luật pháp của Đức Chúa Trời: “Một cặp bồ câu hay một đôi chim cu”.
Ba phương diện khác biệt trong luật pháp Cựu Ước đã quyện vào nhau trong mấy câu nầy:
1. Luật pháp đòi hỏi tất cả con trẻ nam phải chịu phép cắt bì vào ngày thứ 8 sau khi ra đời. Đấy là câu 21.
2. Luật pháp cũng đòi hỏi phụ nữ phải đợi 40 ngày sau khi sinh con trai trước khi họ phải lên đền thờ đặng làm lễ tinh sạch. Đấy là câu 22.
3. Luật pháp cũng đòi hỏi người mẹ người cha phải trình con trai đầu lòng của họ trước mặt Chúa để được “chuộc” qua việc dâng của lễ. Đấy là câu 23.
Tất cả ba việc sẽ xảy ra trong mấy câu nầy. Câu 21 diễn ra 8 ngày sau Giáng Sinh, và các câu 22-23 diễn ra 33 ngày sau đó. Phép cắt bì có thể đã diễn ra tại thành Bếtlêhem, nhưng việc dâng con và sự chuộc tội phải diễn ra tại thành Jerusalem. Lễ tinh sạch nằm trong sự phu phỉ Lê vi ký 12 và sự chuộc tội nằm trong sự phu phỉ Xuất Êdíptô ký 13.
Cặp bồ câu hay hai con chim cu
Mấy câu nầy, dù là điều rất ngẫu nhiên cho mục đích của chúng ta, cho thấy rõ ràng rằng Chúa Jêsus đã ra đời trong một gia đình tuân giữ luật pháp, kính sợ Chúa. Chúng minh họa cho lẽ thật ở Galati 4:4 khi kỳ được trọn, Đức Chúa Trời sai Con Ngài đến, sanh bởi nữ đồng trinh: “sanh ra dưới luật pháp”. Chúng cũng minh hoạ cho chính lời lẽ của Chúa chúng ta ở Mathiơ 5:17: “ta đến, không phải để phá, song để làm cho trọn”. Chúa Jêsus không phải là kẻ phá luật pháp, như một số đối thủ của Ngài gán cho trong nhiều năm sau đó. Ngài sanh ra dưới luật pháp, sống toàn bộ đời sống của Ngài trong sự vâng theo luật pháp, và giữ giới luật của luật pháp thật phu phỉ.
Câu 23 cũng nói cho chúng ta biết đôi điều về tình trạng tài chính của Mary và Giôsép. Bạn đã đọc qua phần nhắc tới “cặp bồ câu hay cặp chim cu” mà chẳng nghĩ suy gì về sự ấy. Nhưng Lê vi ký 12 cho chúng ta biết khi một người đàn bà đến kỳ làm lễ tinh sạch, người ấy phải đem theo một chiên con làm của lễ. Tuy nhiên, nếu người không thể dâng chiên con, thay vì thế người có thể đem cặp chim bồ câu hay cặp chim cu. Sự ấy cũng khả thi cho những người phụ nữ nghèo khi vâng theo luật tinh sạch. Tất cả những điều nầy khẳng định sự thực Mary và Giôsép rất là nghèo, một khi chiên con được coi là khoản xa xỉ. Chúa chúng ta không ra đời trong một gia đình thuộc giai cấp thượng lưu. Ngài không chào đời trong một gia đình trung lưu đầy đủ tiện nghi. Ngài chào đời trong một gia đình tin kính, yêu thương được coi là giai cấp dưới trung lưu. Chúa Jêsus vốn biết rõ tình trạng nghèo khổ và sự nhọc nhằn ngay từ buổi ban đầu.
Simêôn bước vào
Bốn mươi ngày đã trôi qua kể từ lúc Chúa Jêsus ra đời. Ở đây, Mary và Giôsép đã đến trong khu vực Đền thờ, sẵn sàng để “chuộc lấy” con trai đầu lòng của họ. Ở bề ngoài, họ chẳng có gì khác biệt cả, chẳng có một dấu hiệu nào cho thấy họ có gì khác hơn những đôi vợ chồng trẻ khác đang tới đến với con trai đầu lòng của họ.
Đúng thời điểm nầy, Simêôn bước vào câu chuyện. Bên cạnh những gì chúng ta được thuật lại cho biết ở Luca 2, chúng ta chẳng biết gì về ông hết. Chúng ta không biết lai lịch, thị trấn quê hương, học vấn, hay thậm chí đến nghề nghiệp của ông nữa. Chúng ta giả định ông là một thầy tế lễ — dù phân đoạn Kinh Thánh không trực tiếp nói như thế. Chúng ta cũng giả định ông là một cụ già — nhưng dù thế chưa hẳn là một sự kiện chắc chắn. Ông xuất hiện trên bối cảnh lịch sử giống như một màn kịch xoay quanh sự ra đời của Đấng Christ. Sau khi vai trò của ông qua đi, ông mờ dần đối với bối cảnh ấy, không còn nghe nói đến nữa.
Ở đây Mary đến, Giôsép đến, và ở đây Simêôn đến. Ông chưa hề gặp họ trước đây, họ chưa hề gặp ông trước đây. Nhưng một cuộc gặp gỡ được hoạch định cách thiêng liêng sắp sửa diễn ra. Luca thuật lại câu chuyện theo cách nầy:
“Vả, trong thành Giê-ru-sa-lem có một người công bình đạo đức, tên là Si- mê-ôn, trông đợi sự yên ủi dân Y-sơ-ra-ên, và Đức Thánh Linh ngự trên người. Đức Thánh Linh đã bảo trước cho người biết mình sẽ không chết trước khi thấy Đấng Christ của Chúa” (Luca 2:25-26).
Mấy câu nầy cho chúng ta biết vài yếu tố chính về Simêôn. Thứ nhứt, ông là một người công bình. Thứ hai, ông là một người đạo đức. Thứ ba, ông đang trông đợi Đấng Mêsi ngự đến (đấy là điều “trông đợi sự yên ủi dân Y-sơ-ra-ên” thực sự muốn nói tới). Thứ tư, ông là một người đầy dẫy Đức Thánh Linh. Thứ năm, quan trọng nhứt, ông sốt sắng trông đợi sự hiện ra sắp tới của Đấng Mêsi. Phần sau cùng đó rất là hấp dẫn. Đức Thánh Linh đã phán cùng ông: “Ngươi sẽ không chết trước khi ngươi thấy Đấng Christ”.
“Đây có phải là Ngài không?”
Đúng là một lời hứa. Nếu Simêôn giờ đây là một cụ già (dường như là từ câu 29), vậy thì ông đã trông đợi tại Đền Thờ trong nhiều năm trời. Hết ngày nầy sang ngày khác, ông đã cầu thay cho Đấng Christ của Chúa xuất hiện vào lúc sau cùng. Hết năm nầy sang năm khác, những lời cầu nguyện của ông như không có hiệu quả. Khi ông lớn tuổi thêm, tình trạng đề phòng của ông càng mạnh mẽ hơn vì ông biết mình không thể sống đời đời được. Có lẽ ông hiện đã 70 hay 75 hoặc thậm chí 80 tuổi rồi. Có lẽ ông có một bộ râu thật dài màu xám, gù lưng tôm, khuôn mặt nhăn nheo, đôi chân mày rậm rạp, và hai bàn tay run rẩy. Nếu thực vậy, thì ông biết rõ cuộc sống không thể kéo dài mãi được. Đấng Mêsi của Chúa phải đến bất kỳ giờ phút nào.
Bạn có thể hình dung ra bối cảnh không? Mỗi sáng sớm Simêôn đi lên Đền thờ, quan sát, chờ đợi Đấng Mêsi ngự đến. Làm sao ông ta nhìn biết Ngài? Ông trông đợi điều gì chứ? Có phải ông biết rõ mình đang trông đợi một đứa trẻ không? Hay có phải ông đang tìm kiếm một thiếu niên hay một thanh niên vạm vỡ? Không một ai biết câu trả lời cho những thắc mắc đó.
Hết ngày nầy sang ngày khác, ông cứ quan sát các đám đông đến trong Đền Thờ. Mỗi lần có đôi vợ chồng trẻ bước vào với một đứa bé, ông thì thầm: “Có phải là Ngài chăng?” Nếu ông nhìn thấy một thiếu niên dễ nhìn, ông sẽ nói: “Có phải là Ngài không, lạy Chúa, hay là người khác?” Mỗi ngày ông quan sát, trông ngóng, và thắc mắc. Mỗi ngày câu trả lời được đưa ra, thật nhiều lần: “Không, không phải là Ngài đâu. Cứ tìm kiếm đi. Cứ quan sát đi. Cứ đợi đi nhé!”
Ở đây, Mary đến, tay bồng đứa trẻ cùng với Giôsép đi bên cạnh. Chúa Jêsus chỉ mới có 40 ngày tuổi. Chưa hề có một đôi vợ chồng nào như thế. Chồng là thợ mộc nghèo khó xuất thân từ thành Naxarét, vợ là thôn nữ quê mùa đang bồng một đứa con trai. Rõ ràng họ đến từ trong xứ. Rõ ràng là họ chẳng có nhiều tiền bạc. Nếu bạn đang quan sát con người, bạn sẽ không dành cho họ một cái liếc mắt đâu.
Không học vấn. Không phải là thành phần của giới trí thức. Không xuất thân từ tầng lớp thượng lưu. Và tại đây, họ có mặt trong thành Jerusalem, đang bước vào sảnh đường của Đền Thờ. Khi Simêôn nhìn thấy họ, ông đưa ra câu hỏi chắc là lần thứ 10.000: “Có phải đây là Ngài không?” Và Đức Thánh Linh đáp: “Đúng đấy”.
“Đây là Ngài đây”
Thình lình trái tim của Simêôn nhảy dựng lên trong ông. Những ngày dài trông đợi sau cùng cũng trôi qua. Đấng Christ của Chúa đang ở ngay trước mặt ông. Đây là Đấng mà cả xứ đã trông đợi. Ông bước tới, tự giới thiệu mình, rồi nói: “Ông bà có phiền không nếu tôi bồng lấy Con Trẻ?” Khi Mary trao Con Trẻ Jêsus cho Simêôn, tư tưởng chạm đến ông: “Ta đang bồng ẳm ơn cứu rỗi của thế gian trong vòng tay của mình”.
Ở điểm nầy, Simêôn thốt ra thành bài ca ngợi khen, một bài ca tuyệt vời đến nỗi nó được tải đi hàng bao thế kỷ đến với chúng ta như bài hát sau cùng lên đến đỉnh điểm cao ngất trong Lễ Giáng Sinh. Bài ca được gọi là Nunc Dimittis, đề tựa được lấy từ hai chữ đầu của bản dịch Latinh ghi lại lời của Simêôn.
Những điều nối theo sau, trước tiên là bài ca (các câu 29-32) và kế đó một lời tư riêng có tính tiên tri chúc phước cho Mary (các câu 34-35). Bài ca là thế nầy đây:
Lạy Chúa, bây giờ xin Chúa cho tôi tớ Chúa được qua đời bình an, theo như lời Ngài; Vì con mắt tôi đã thấy sự cứu vớt của Ngài, mà Ngài đã sắm sửa đặng làm ánh sáng trước mặt muôn dân, soi khắp thiên hạ, và làm vinh hiển cho dân Y-sơ-ra-ên là dân Ngài.
Tư tưởng đầu tiên của Simêôn, ấy là giờ đây cụ sẵn sàng để chết rồi. Từ ngữ “qua đời” là một từ quân sự, được sử dụng để mô tả một người lính gát đứng canh chừng nhiều giờ trong ban đêm. Giờ đây, sau cùng thì mặt trời mọc lên trên đường chân trời hướng Đông, người biết công việc của mình đã qua rồi, và người đến gặp vị sĩ quan chỉ huy xin được nghỉ ngơi. Khi được cho phép nghỉ ngơi, người trở về doanh trại để ngủ nghỉ. Đấy là cách mà Simêôn cảm nhận. Sự trông đợi lâu nay đã xong rồi, nhiều năm tháng đề phòng đã phu phỉ rồi, bổn phận thức canh của ông đã xong, vì ông đã nhìn thấy và đã tư riêng bồng ẳm “Đấng Christ của Chúa”.
Đôi khi chúng ta nghe những câu chuyện nói tới những bịnh nhân đau ốm, họ nói: “Bác sĩ ơi, tôi muốn cứ sống cho đến Lễ Phục Sinh”. Thế rồi khi Lễ Phục Sinh đến, họ yên lặng rút gọn. Hoặc họ nói: “Tôi muốn cứ sống cho tới chừng cháu gái tôi lập gia đình”. Họ sống thọ đủ để nhìn thấy nó bước xuống các nấc thang trong nhà thờ, và rồi họ qua đời. Những vị bác sĩ nhìn thấy việc ấy xảy ra hoài. Khi mục tiêu đạt được, cuộc sống đã hoàn tất và sự chết đến mau chóng.
Đấy chính xác là điều mà Simêôn đang cảm nhận. Ông không sống để nhìn thấy Chúa lớn lên. Ông không chứng kiến bất kỳ một phép lạ lớn lao nào. Ông không nhìn thấy Chúa Jêsus đi bộ trên mặt biển, cho 5.000 người ăn và làm cho kẻ chết được sống lại. Simêôn qua đời rất lâu khi Chúa Jêsus đứng trước mặt Philát. Ông cũng không nhìn thấy Chúa Jêsus bị đóng đinh trên thập tự giá, cũng như sự sống lại. Sự ông không nhìn thấy điều kết cuộc thì không thành vấn đề, vì Simêôn đã nhìn thấy phần mở đầu, và bấy nhiêu là đủ rồi.
Con Trẻ nầy thì như thế nào đây?
Hãy chú ý ông nói gì về Chúa Jêsus. Trong những lời lẽ sau đây, Simêôn nói cho chúng ta biết ba điều quan trọng về Chúa Jêsus là ai:
I. Ngài là sự vinh hiển của Israel
Ở câu 32, Simêôn gọi Ngài là: “vinh hiển cho dân Israel”. Nơi Con Trẻ nầy, Simêôn nhìn thấy sự ứng nghiệm của tất cả mọi hy vọng và ước mơ của dân Do thái trải bao thế kỷ. Gọi Chúa Jêsus là: “vinh hiển cho dân Israel” đưa chúng ta ngược trở về với thời Ápraham khi Đức Giêhôva phán: “Ta sẽ làm cho ngươi nên một dân lớn; ta sẽ ban phước cho ngươi, cùng làm nổi danh ngươi, và ngươi sẽ thành một nguồn phước. Ta sẽ ban phước cho người nào chúc phước ngươi, rủa sả kẻ nào rủa sả ngươi; và các chi tộc nơi thế gian sẽ nhờ ngươi mà được phước”. Sau đó, sự tái khẳng định đã đến cho Ysác, và rồi với Giacốp. Sau đó Đức Chúa Trời còn căn dặn Môise rằng một ngày kia vị tiên tri lớn sẽ đến, Ngài sẽ không giống với bất cứ một tiên tri nào trước Ngài. Sau đó, Đức Chúa Trời đã hứa với David một con trai sẽ trị vì trên ngôi của ông cho đến đời đời. Sau đó, Đức Chúa Trời phán qua Êsai và hứa rằng một con trai sẽ sanh ra bởi nữ đồng trinh, và danh Ngài sẽ được gọi là Emmanuên — Đức Chúa Trời Ở Cùng Chúng Ta. Về sau, tiên tri Michê đã nói trước rằng Đấng Mêsi sẽ chào đời ở thành Bếtlêhem. Trong nhiều thế hệ mọi lời hứa đã được lặp đi lặp lại — từ cha cho con trai, từ mẹ cho con gái, từ gia đình đến gia đình, từ người già đến kẻ trẻ, và trẻ con Do thái được dạy dỗ phải cầu nguyện xin sự xuất hiện của Đấng Mêsi.
“Tại sao Đấng Mêsi trì hoãn sự đến của Ngài?”
Hãy đến với thế kỷ đầu tiên, bạn có biết bao nhiêu thế kỷ trông đợi đã trôi qua không? Trong tác phẩm tuyệt vời của ông có để tựa là Đời sống và thời thế của Chúa Jêsus Đấng Mêsi, Alfred Edersheim nói cho chúng ta biết khi Chúa Jêsus chào đời đã có sự phấn khích rất lớn trong xứ Israel. Đang khi sự thực có nhiều người chẳng trông mong, thì cũng rất thực khi có nhiều người khác vốn biết rõ điều chi đó sẽ xảy tới và Đức Chúa Trời đang bắt đầu quậy cái bình lịch sử lên.
Một số người Do thái nghĩ Đấng Mêsi sẽ là một lãnh tụ chính trị quan trọng, Ngài sẽ lật đổ Rome và phục hưng Israel đến địa vị quyền lực của nó trên thế gian. Nhiều người khác nghĩ Đấng Mêsi sẽ là chính mình Đức Chúa Trời. Vẫn có nhiều người khác trông mong một Môise thứ nhì hoặc một Êli thứ nhì. Vì thế, bạn sẽ có một mớ lộn xộn pha lẫn với một ý thức trông mong. Edersheim nói rằng vào thời điểm Chúa Jêsus chào đời, có một thắc mắc dấy cao lên hơn những thắc mắc khác trên môi miệng của từng người Do thái nào có lòng trông mong: “Tại sao Đấng Mêsi trì hoãn sự đến của Ngài chứ?”
Giờ đây, sau hết thảy những tháng năm ấy, mọi lời hứa của Đức Chúa Trời đã trở thành hiện thực. Đấy là điều Simêôn muốn nói khi ông gọi Chúa Jêsus là “vinh hiển cho Israel”. Như có bài hát viết: “mọi kỳ vọng, e sợ trong mọi năm tháng đều được thoả trong Ngài tối nay”.
II. Ngài là Cứu Chúa của thế gian
Khi ấy Simêôn gọi Ngài là: “ánh sáng trước mặt muôn dân”. Đây là một tư tưởng hoàn toàn mới mẻ. Bạn không tìm thấy điều nầy trong các bài ca Giáng Sinh khác đâu. Bài ca của Mary hoàn toàn là của người Do thái. Nàng suy nghĩ trong mọi giới hạn của người Do thái rồi tỏ ra mọi suy tưởng của mình theo những phương thức của người Do thái. Người dân Ngoại chẳng biết đâu mà rờ. Cũng thực như thế về Xachari. Bài ca của thiên sứ mở rộng nhận định bằng cách nhắc nhớ: “Bình an trên đất, ân trạch cho loài người”. Nhưng chẳng có một chỗ nào trong bất kỳ bài ca nào trước đây có dân Ngoại được nhắc tới đích danh.
Nhưng Simêôn nói quyết rằng Con Trẻ nầy không những là vinh hiển cho đồng bào Israel của ông. Ông còn cho đấy là ánh sáng trước mặt muôn dân nữa. Không những Ngài là dành cho dân Israel. Ngài không đến chỉ cho tiện ích cho họ thôi đâu. Ngài đã đến để chiếu ra ánh sáng khải thị của Đức Chúa Trời cho từng quốc gia, từng chi tộc, từng họ hàng và từng thứ tiếng nói. Người Do thái không thể nói: “Ngài thuộc về chúng tôi và bạn không thể có Ngài đâu”. Họ cũng không thể nói: “Bạn phải trở thành một người Do thái để tận hưởng những ơn phước của Đấng Mêsi” Không đâu! Chắc chắn đấy là điều mà một số người Do thái trông mong. Nhưng lời lẽ của Simêôn đã đập tan chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi đó.
Ngài là Cứu Chúa của cả thế gian. Giàu và nghèo, trẻ và già, đen và trắng, Do thái và dân Ngoại, người Mỹ hay người Nhật, khoẻ mạnh hay đau yếu. Tất cả mọi người đều gộp lại trong sự đến của Ngài. Ngài không đến cho một nhóm thiểu số. Ngài đã đến cho cả thế giới. “Đỏ và vàng, đen và trắng, họ rất quí giá trong ánh mắt của Ngài”.
Nói như thế là có hy vọng cho bạn vào dịp Lễ Giáng Sinh. Nếu bạn sống cô độc trong năm nay, Simêôn có ý nói gồm cả bạn nữa đấy. Nếu gia đình bạn chối bỏ bạn, Simêôn có ý nói gồm cả bạn đấy. Nếu bạn cảm thấy bị bỏ quên, ngã lòng, thối chí, kém may mắn, hãy vui vẻ lên, Lễ Giáng Sinh là dành cho bạn đấy! Dù là tội lỗi nào đang lôi kéo bạn năm nay, lễ Giáng Sinh có ý nói rằng bạn đã được tha thứ, vì Chúa Jêsus đã đến vì bạn.
Nếu sự thực Chúa chúng ta là một người Do thái. Nhưng Ngài không đến chỉ cho người Do thái thôi đâu.
Ngài gặp gỡ người đàn bà Samari bên giếng, và Ngài đã tha thứ cho bà ta.
Ngài gặp thầy đội Lamã và phán: “Ta chẳng thấy đâu có đức tin lớn trong khắp cả Israel”.
Ngài đã gặp người đàn bà Sirôphênixi và đã chữa lành cho con gái của bà ta.
Khi Ngài bị đóng đinh trên thập tự giá, chính thầy đội người Lamã đã thốt ra: “Quả thật, người nầy là Con của Đức Chúa Trời”.
Trong mọi sự nầy, Simêôn đang nói cho chúng ta biết đôi điều rất cụ thể. Bằng cách sai Con Ngài đến với trần gian, không những Ngài làm ứng nghiệm mọi lời hứa của Ngài cho xứ sở. Mà Ngài còn đem đến cho thế gian một Đấng Cứu Thế cho mọi người ở khắp mọi nơi.
III. Ngài là Đấng phân chia dòng giống con người
Tuy nhiên, có việc thứ ba mà Simêôn đã thốt ra. Câu chuyện tiếp tục ở các câu 33-35:
Bố mẹ của Con Trẻ đã lấy làm lạ nơi những điều đã được nói về Ngài. Khi ấy Simêôn chúc phước cho họ rồi nói với Mary, mẹ Ngài: “Đây, con trẻ nầy đã định làm một cớ cho nhiều người trong Y-sơ-ra-ên vấp ngã hoặc dấy lên, và định làm một dấu gây nên sự cãi trả; còn phần ngươi, có một thanh gươm sẽ đâm thấu qua lòng ngươi. Ấy vậy tư tưởng trong lòng nhiều người sẽ được bày tỏ”.
Đây là việc thứ ba và là việc sau cùng mà Simêôn thốt ra về Chúa Jêsus. Ngài là Đấng phân chia loài người. Ngài sẽ khiến cho nhiều người phải vấp ngã. Ngài sẽ khiến cho nhiều người dấy lên. Và nhiều người sẽ nói nghịch Ngài, và khi nói nghịch Ngài, những tư tưởng kín giấu trong lòng sẽ được bày tỏ ra.
Đúng là điều phải nói về một con trẻ: “Mary ơi, ta biết ngươi giờ đây vui sướng lắm, nhưng ngươi sẽ khóc lóc sau đó. Hôm nay tấm lòng ngươi đầy dẫy với mừng vui. Về sau nó sẽ đầy dẫy với đau buồn. Hãy vui vẻ và tận hưởng thời điểm nầy vì những ngày tăm tối sẽ xảy đến”.
Há chẳng thật sao, nếu bạn là bố mẹ, việc xấu xa nhất có thể xảy ra cho bạn khi nhìn thấy con cái bạn đau khổ? Hầu hết chúng ta sẽ làm điều chi đó để giải thoát cho con cái chúng ta không phải chịu khổ. Chúng ta vui sướng tự mình chịu khổ một khi điều đó tạo cho con cái mình cuộc sống dễ dàng hơn. Đấy là ý nghĩa khi trở thành Bố hay Mẹ. Bạn chịu lấy khổ đau để rồi con cái mình sẽ không phải gánh chịu.
Sanh ra để chết
Simêôn đang nói: “Mary ơi, họ sẽ chạm đến con trẻ nầy, và ngươi sẽ chẳng có quyền làm điều gì về sự ấy. Họ sẽ thù ghét nó, họ sẽ vu cáo nó, họ sẽ đồn đãi về ngươi và Giôsép, họ sẽ chế nhạo tên tuổi của nó bằng những lời dối trá. Còn ngươi sẽ phải đứng đó trong vô dụng mà nhìn điều ấy xảy ra”.
Hãy đi đi rồi sẽ nhìn thấy mọi sự thực đó. Chắc chắn họ sẽ thắc mắc không những về bố mẹ của Ngài, mà còn thắc mắc về khả năng trí khôn của Ngài nữa. Họ sẽ cười thầm rồi nói: “Hắn nghĩ hắn là Con Đức Chúa Trời sao. Nhưng hắn chỉ đầy ắp với ma quỉ thôi”. Đến cuối cùng, thù hằn sẽ nắm hết quyền điều khiển và họ sẽ bắt Chúa Jêsus rồi đem Ngài xét xử như một tên phạm thượng dấy loạn. Họ đánh đòn Ngài với từng giây hơi thở, để lại trên da Ngài những lằn đòn vọt. Sau khi xét xử, Ngài bị kết án tử hình. Đến cuối cùng, Mary đứng bên cạnh thập tự giá nhìn thấy con trai bà chết một cái chết đau thương, tàn bạo, đổ máu và như không phải là con người. Ở giữa mùi hôi thối khó chịu và máu me của sự đóng đinh trên thập tự giá, Mary đứng bên cạnh con của bà, không thể cầm lại được dòng huyết đó, không thể lau sạch vầng trán Ngài, không thể cầm lấy tay Ngài.
Mọi sự ấy đã xảy ra thật chính xác y như Simêôn đã nói trước. Khi Mary nhìn thấy con bà gục chết, một thanh gươm đâm thấu linh hồn bà. Bên trên chiếc máng cỏ, thập tự giá sừng sửng đứng. Con Trẻ nầy ra đời để chịu chết. Dag Hammarskjold, về sau là Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc, đã nói như sau:
Thật là thích hợp khi Lễ Giáng Sinh theo sau Mùa Vọng. Đối với ai nhìn tới tương lai, chiếc máng cỏ được đặt trên đồi Gôgôtha, còn thập tự giá đã dựng lên rồi tại thành Bếtlêhem. (Hymns for the Family of God, p. 189)
Niềm vui của Lễ Giáng Sinh dẫn tới nỗi đau thương của ngày Thứ Sáu Tốt Lành. Ngài ra đời để rồi kết thúc theo cách ấy.
Không có trung lập
Bạn có để ý không, làm thế nào mà Simêôn nói như thế được chứ? Vì cớ Chúa Jêsus, những tư tưởng của mọi lòng sẽ được tỏ ra. Hãy để điều đó vào tâm trí của bạn đi. Với Chúa Jêsus, chẳng có trung lập chi hết. Không một ai có thể mặt đối mặt với Chúa Jêsus mà rồi vẫn cứ sống như nguyên cũ được đâu. Mỗi lần bạn nhìn xem Chúa Jêsus, một là bạn sẽ kéo đến gần Ngài hơn hoặc bạn sẽ lui đi càng xa thêm. Đấy là điều Simêôn muốn nói khi ông nói rằng Chúa Jêsus sẽ khiến cho nhiều người bị vấp ngã và nhiều người được dấy lên. Một là bạn lên cao thêm về mặt thuộc linh khi bạn gặp gỡ Chúa Jêsus hoặc bạn sẽ quay ngoắt rồi đi theo hướng khác. Một là đi lên hoặc đi xuống, thiên đàng hay địa ngục.
Làm sao được như thế chứ? Người ta lên cao hay vấp ngã tuỳ theo đáp ứng riêng của họ đối với Chúa Jêsus. Trong thế gian nầy chỉ có hai hạng người mà thôi: Người nào tin theo Đức Chúa Jêsus Christ và những ai không tin theo. Và chẳng có một vùng đất nào ở giữa hết. Chẳng có một vạch cản nào đặng ngồi lên trên.
Chuyện nầy rất thường ở nước Mỹ, và đặc biệt ở một chỗ trí thức như Oak Park, ngồi lên vạch cản liên quan đến Thân Vị của Đức Chúa Jêsus Christ. Cũng rất thường khi người ta gọi Ngài là giáo sư nhơn đức, một người nhơn đức, một tấm gương đạo đức tuyệt vời, và cứ thế. Simêôn đang nói bạn không thể làm như thế được. Bạn phải nặn đầu óc về Chúa Jêsus. Một, Ngài là Con Đức Chúa Trời đến từ trời, hoặc Ngài không phải vậy. Nếu Ngài không phải vậy, thế thì Ngài là kẻ lừa lọc vĩ đại nhất trong lịch sử loài người, và xứng đáng cho sự khinh bĩ sâu sắc nhất của chúng ta. Vì nếu Ngài không phải là Con của Đức Chúa Trời, thì một, Ngài là kẻ mất trí hoặc Ngài là cái gì tệ hại hơn thế nhiều — Ngài phạm phải việc che giấu lai lịch thật của mình.
Nhưng nếu Ngài là con của Đức Chúa Trời, thế thì đáp ứng khả thi duy nhứt là sấp mình xuống mà thờ lạy Ngài!
Trong kỳ lễ Giáng Sinh, bạn chỉ có hai sự lựa chọn về Đức Chúa Jêsus Christ. Một, bạn hiệp với Hêrốt trong việc tìm cách giết chết Ngài hoặc bạn hiệp với mấy thầy bác sĩ trong việc sấp mình xuống thờ lạy Ngài. Và chẳng có gì ở giữa hết!
Hãy nhớ, nếu bạn dửng dưng, thực sự bạn đã hiệp với phe muốn giết chết Ngài rồi đấy.
Đối với bạn Jêsus là gì nào?
Đối với bạn, Jêsus là gì sáng nay?
Ngài là sự sống hay sự chết.
Ngài là thiên đàng hay địa ngục.
Ngài là vui mừng hay buồn rầu.
Ngài là tội lỗi hay sự tha thứ.
Ngài là sự cứu rỗi hay sự phán xét.
Ngài là sự sống đời đời hay án phạt đời đời.
Cho phép tôi chuyển câu hỏi về tận nhà. Đối với bạn, Jêsus là gì nào? Không phải Ngài là ai, mà đối với bạn Ngài là gì nào? Có phải Ngài là sự sống hay Ngài là sự chết đối với bạn sáng nay?
Đấy là điều Simêôn đang thố lộ. Con Trẻ nầy là sự vinh hiển của dân Israel, Ngài là sự sáng của thế gian, cũng là Đấng phân chia dòng giống con người. Một, bạn đang ở phía nầy hoặc phía kia về Chúa Jêsus. Không một người nào cứ ở mãi nơi khu giữa hết.
Phương thức bạn đáp ứng với Chúa Jêsus tỏ ra những gì đang có ở trong tấm lòng của bạn. Hãy suy nghĩ về điều đó xem. Phương thức bạn đáp ứng với Chúa Jêsus nói cho chúng tôi biết bạn là ai, bạn là gì và điều chi có ở trong tấm lòng của bạn. Nhưng bấy nhiêu chưa phải là đủ đâu. Phương thức bạn đáp ứng với Chúa Jêsus nói cho chúng tôi biết bạn đang ở đâu và làm thể nào bạn đi đến đó được. Và trên hết mọi sự, phương thức bạn đáp ứng với Chúa Jêsus nói cho chúng tôi biết bạn sẽ qua cõi đời đời ở đâu nữa kìa.
Chúa Jêsus, Đấng phân chia nhân loại!
Và há chính mình Chúa chúng ta đã có phán: “ta đến, không phải đem sự bình an, mà là đem gươm giáo” (Mathiơ 10:34). Simêôn đã nhìn thấy điều đó ngay từ buổi ban đầu.
Trước tiên, có Hêrốt và Mấy thầy bác sĩ. Một kẻ muốn giết Ngài và những người kia muốn thờ lạy Ngài. Tiếp đến có Phierơ biết ăn năn và Giuđa đã tự tử. Rồi có Philát tìm cách rửa ray mình và thầy đội nói: “Quả thật người nầy là Con của Đức Chúa Trời”. Kế đó, có tên cướp, hắn phạm thượng và tên kia đã chịu tin theo. Từ buổi đầu của cuộc đời Ngài cho đến cuối cùng, Chúa Jêsus đã phân chia dòng giống con người.
Đối với bạn, sáng nay Ngài là gì vậy?
Khi Simêôn bồng Con Trẻ Jêsus trên tay mình, ông nói: “Lạy Chúa, con sẵn sàng về quê hương ngay bây giờ. Con sẽ qua đời bình an”. Nhưng không có ai sẵn chịu chết cho tới khi họ đã gặp Đức Chúa Jêsus Christ với con mắt đức tin. Bạn không sẵn sàng chịu chết cho tới chừng nào bạn đã gặp Ngài, nhận biết Ngài và tin cậy Ngài làm Cứu Chúa của bạn.
Một khi bạn đã gặp Ngài, sự chết không còn là kẻ thù nữa. Thực ra bạn có thể sống đời sống của mình và bạn có thể đến mức cuối không thành công như bạn muốn. Có thể bạn sống trong nỗi thất bại nào đó vì bạn không đạt được mọi mục tiêu riêng của mình. Nhưng (và đây là “nhưng” thiệt là lớn) nếu bạn có thể đến mức cuối của cuộc đời mình, bạn nói: “Tôi đã gặp Đức Chúa Jêsus Christ”, khi ấy bạn đã có một cuộc sống nhơn đức.
Nếu bạn đến tại mức cuối, và bạn chưa gặp Chúa Jêsus, về mặt cơ bản bạn đã phí mất nhiều năm tháng trên đất nầy.
Ngài là Đấng vĩ đại phân chia con người. Ai đang đọc những lời nầy, một là ở bên nầy hay là ở bên kia.
Việc duy nhứt là vấn đề: ấy là Chúa Jêsus
Đầu tuần nầy, tôi có nhận một cú phone từ một người bạn thân, ông đã trải qua kinh nghiệm nhìn thấy cái chết của người thân. Việc ấy không phải là dễ làm trong dịp Lễ Giáng Sinh. Trong khi mọi người khác đang ca hát, cười đùa, bạn nhìn xem ai đó bạn yêu dấu phải xa rời bạn. Khi bạn tôi gọi đến, ông ấy nói như sau: “Vào thời điểm như thế nầy, bạn nhận ra điều chi là quan trọng. Khi bạn thấy ai đó chết trước mặt mình, bạn nhận ra rằng những việc của thế gian không còn là quan trọng nữa. Tiền bạc, quyền lực, sự nghiệp, hết thảy chúng đều chẳng nhằm nhò chi hết. Ở chỗ cuối cùng, việc duy nhứt là vấn đề, ấy là nhìn biết Đức Chúa Jêsus Christ”.
Bây giờ là thời điểm Lễ Giáng Sinh. Bạn có nhìn biết Ngài chưa?
Ngài là Đấng Mêsi của Israel. Bạn có nhìn biết Ngài chưa?
Ngài là Cứu Chúa của thế gian. Bạn có nhìn biết Ngài chưa?
Ngài là Đấng phân chia loài người. Bạn có nhìn biết Ngài chưa?
Bây giờ là thời điểm Lễ Giáng Sinh. Ngài đã đến vì bạn đấy. Bạn có nhìn biết Ngài chưa?
Lạy Cha, chúng con cảm tạ Ngài vì Ngài không làm những điều Ngài có thể làm. Ngài không để chúng con lại trong tội lỗi của chúng con. Ngài có thể quên chúng con, Ngài có thể để cho chúng con sống trong vô vọng. Nhưng Ngài không để chúng con lại một mình. Ngài đã đến vì chúng con! Và Ngài đã tìm gặp chúng con. Ngài đã sai Chúa Jêsus đến cứu chúng con. Cảm tạ Ngài vì đã ngự đến cùng chúng con, để chúng con được an ninh lúc bây giờ và được cứu cho đến đời đời — trong đời nầy và trong đời hầu đến. Chúng con cảm tạ Ngài trong danh Chúa Jêsus, Amen.

Chúa Jêsus Nhà Cách Mạng: Bài ca của Mary –



Chúa Jêsus Nhà Cách Mạng:
Bài ca của Mary –
Luca 1:48-55

Khi lịch sử của thế kỷ thứ 20 sau cùng được viết ra, rõ ràng bốn mươi năm sau cùng sẽ được gọi là Kỷ Nguyên Cách Mạng. Trước tiên, chúng ta có cuộc cách mạng văn hoá, kế đó chúng ta có cuộc cách mạng về phái tính, nối theo sau là cuộc cách mạng kỷ thuật. Trong mấy năm sau cùng, chúng ta có cuộc cách mạng về chính trị.
Hãy xem xét các biến cố đáng kinh ngạc trong năm 1991. Cách đây 12 tháng, mọi mắt đều dồn về Vịnh Batư. Đã có cuộc đồn đãi về Đệ III Thế Chiến, chiến trường Atmaghêđôn và kỳ tận thế của thế giới. Hết thảy chúng ta đều lấy làm lạ không biết điều chi sẽ diễn ra ở Kuwait và Iraq khi “Mẹ đẻ của mọi chiến trận” đã nổ ra. Thế rồi, cuộc chiến đã qua đi, và Saddam Hussein xem ra chỉ là kẻ độc tài nhãi nhép, một con chó hay kêu rú, tiếng sủa của nó đã được minh chứng rất tệ hại hơn miếng cắn của nó nữa.
Khi năm 1991 đến mức cuối cùng, mọi mắt đều nhắm về Liên Bang Sô Viết. Ai dám tin những việc lạ lùng đã xảy ra ở đó trong mấy tháng sau cùng ấy? Nếu có ai tiên đoán tháng Chạp vừa qua Đảng Cộng Sản sẽ bị đặt ra ngoài vòng pháp luật ở nước Nga, người ấy sẽ bị cười nhạo ngay. Nhưng đấy chính xác là những gì đã xảy ra theo hậu quả của việc làm táo bạo sớm thất bại vào tháng 8. Chủ nghĩa Cộng sản không còn nữa, Gorbachev bị loại ra ngoài, Yeltsin bước vào, nền độc lập hiện diện, và khối thịnh vượng chung được hình thành.
Cuộc tấn công lén lút
Những chiến thuật và sự thù hằn phá tán đất là những đặc điểm của kẻ thù thuộc linh của bạn. Hãy tự bảo vệ bản thân mình chống lại chương trình của Satan hòng huỷ diệt đời sống của bạn.
Rút tỉa thêm những chi tiết
Bạn có để ý Ông Gorbachev nói gì vào tuần lễ nầy không? Khi những chi tiết của thoả thuận mới được công bố, ông nói: “Công việc của cuộc đời tôi đã xong rồi. Chẳng có gì còn lại cho tôi để làm nữa”. Đúng vậy, công việc của ông đã hoàn tất. Lịch sử đã trôi qua ông. Thế nhưng những biến cố trong mấy ngày qua đã làm cho mọi người phải kinh ngạc.
Với khối thịnh vượng chung mới, Cộng Hoà Liên Bang Sô Viết xưa đã thôi không tồn tại nữa. Không một ai biết phải gọi mọi sự sắp đặt mới mẻ kia là gì nữa, nhưng ai nấy đều biết đường lối cũ đã qua đi cho đến đời đời. Ai có thể tiên đoán được một việc như thế mới xảy ra cách đây có 3 tuần lễ thôi!?!
“Tôi không biết mình xuất thân từ quốc gia nào”
Đôi khi chúng ta quên rằng những thay đổi gây choáng váng nầy có ý nhắm vào trình độ cá nhân. Thứ Sáu vừa qua, Marlene và tôi đến dự Tiệc Giáng Sinh Thân Hữu Quốc Tế tại nhà của Keuer. Tôi nhận ra sau đó rằng hơn 100 người có mặt ở đó, gồm những sinh viên quốc tế, họ đến từ Trung hoa, Hàn quốc, Nhận bản, Đức, Anh quốc, Thụy điển và Nga sô. Khi chúng tôi đến, người ta yêu cầu chúng tôi phải điền vào bảng danh sách tên tuổi và gốc gác quốc gia của chúng tôi. Trong suốt buổi tối, tôi gặp gỡ Lena đến từ Mắxcơva, chồng cô là sinh viên học vị Tiến sĩ ở trường UIC. Họ đến Mỹ mới vừa có hai tháng. Khi tôi hỏi cô ấy nghĩ gì về những thay đổi ở xứ sở của mình, cô ấy nói: “Tôi nghĩ những thay đổi đó rất là tuyệt vời”. Nhưng rồi cô nhìn vào bảng danh sách, cô nói: “Tôi biết tên của mình, nhưng tôi không biết tôi xuất thân từ quốc gia nào nữa”.
Đồng thời, một người có tên là Erich Honecker hiện có mặt ở Toà Đại Sứ Chile ở Mắccơva. Trong nhiều năm trời, ông đã lãnh đạo Đông Đức, nhưng khi bức tường Bá linh sụp đổ, công việc của ông thôi không còn có nữa. Ông Gorbachev đã để cho ông đến nước Nga để tránh sự bắt bớ về tội ác chống lại dân tộc Đức. Giờ đây, Boris Yeltsin đang nắm lấy quyền lực, ông ta chẳng còn có chỗ nào để đi nữa. Bị từ chối không cho ẩn náu bởi nước Nga và rồi kế đó bởi Chile, ông ta được lịnh phải rời khỏi nước Nga vào ngày mai. Ông ta không thể trở về lại quê hương, nếu ông ta về, ông ta sẽ bị bắt ngay giây phút ông ta bước ra khỏi phi cơ. Khi ông còn là lãnh tụ của Đông Đức, ông đã đứng ra lịnh bắn bất cứ ai tìm cách thoát thân sang Tây Đức. Giờ đây, bản thân ông là một kẻ đào tẩu trốn tránh sự công bình. Ôi, kẻ mạnh sức gục ngã là dường nào!
Kỷ nguyên của bịnh AIDS
Chúng ta đang sống trong những thời kỳ cách mạng. Ngay trước mắt chúng ta, trật tự cũ đã sụp đổ, và trong chỗ của nó một thế giới mới đang thành hình. Trong hai năm qua, chủ nghĩa Cộng sản đã gãy vụn và tan vỡ. Bạn tìm đâu trên thế giới để thấy một người cộng sản thật nữa? Có lẽ ở Cuba, hay có thể ở Bắc Hàn. Nhưng ngay cả hai quốc gia đó ngọn gió thay đổi cũng đang thổi bùng lên.
Bạn có để ý những gì tạp chí Newsweek đăng trong tuần nầy về khủng hoảng bịnh AIDS không? Tạp chí nầy nói thập niên 60 và thập niên 70 thuộc về Kỷ nguyên Hoàng đạo. Nhưng giờ đây Kỷ nguyên Hoàng đạo đã nhường chỗ cho kỷ nguyên AIDS. Chủ nghĩa lạc quan bị thế chỗ bởi chủ nghĩa bi quan, và tin cậy bị thế chỗ bởi sợ hãi, lớp người trẻ, họ thường rất phấn khích về tương lai giờ đây đầy dẫy trong họ là bất ổn. Thế giới đang quay tròn trên trục đạo đức của nó, và chúng ta được dành cho những chỗ ngồi nhìn xem cuộc cách mạng về đạo đức, về thuộc linh và về văn hoá đang diễn ra ở chung quanh chúng ta.
Chuyện khởi sự tại chuồng chiên
Chuồng chiên dường như là một nơi không thích hợp lắm, từ đó bắt đầu một cuộc cách mạng làm lay động cả thế giới. Nhưng đấy là chỗ mà mọi sự đã bắt đầu — trong cái chuồng chiên nằm bên ngoài một ngôi làng bị quên lãng có tên gọi là Bếtlêhem. Nhà quán đã đông người vì các hành khách mệt mõi đang trên đường của họ về lại quê để đăng ký vào sổ bộ. Không một ai dành ra một giây đồng hồ để nhìn qua đôi vợ chồng trẻ đang lấp ló nơi cửa. Người chồng có nét lo âu trên gương mặt, người vợ rõ ràng là đang có thai gần đến ngày rồi. Đã có một cuộc trao đổi ngắn, một lời nài nĩ từ người cha mệt nhọc đó, song chủ quán chỉ lắc đầu rồi quay đi. Ông ta chẳng phải là con người khó chịu, hay người lỗ mãng, hoặc kẻ xấu đâu. Ông ta chỉ nói ra sự thật mà thôi. Quán trọ của ông ta đã đầy ắp người đêm hôm đó.
Đúng là một khoảng thời gian rất dài khi có việc quan trọng xảy ra tại thành Bêtlêhem — gần 1000 năm. Đúng là đã lâu như thế khi Vua David chào đời tại đó, kể từ đó, có hơn 30 thế hệ đến rồi đi, và Bếtlêhem đã trở thành một ngôi làng yên tĩnh như bao làng mạc trong xứ Giuđê.
Phía bên ngoài nhà quán là cái chuồng chiên — đúng ra là một cái hang nhỏ được khoét sâu bên sườn núi. Đấy là nơi mà Mary và Giôsép đã đến sau khi chủ nhà quán xua họ đi. Khi Chúa Jêsus ra đời, họ đã đặt Ngài vào cái máng ăn của gia súc hay bầy chiên. Chắc chắn Mary phải làm sạch bụi bặm, rác rưỡi trước khi nàng đặt con trẻ Jêsus vào đó. Đây không phải là nơi rất tiện nghi cho một con trẻ mới sanh nằm nghỉ đâu. Mary đã quấn con trẻ của mình bằng những mảnh vải vụn để giữ ấm chống lại tiết lạnh giá giữa đêm đông. Thuật ngữ truyền thống là “tả lót”.
Thế là Chúa Jêsus đã vào trong thế gian — chào đời trong một ngôi làng bị quên lãng, cho hai bố mẹ đang ở tuổi niên thiếu, được đặt nằm trong máng cỏ, thế gian đang ngủ say bất cần đến. Không, bạn không trông mong một cuộc cách mạng khởi sự ở đây. Và nếu bạn đang hoạch định một lối vào thật lớn, đây chẳng phải là phương thức bạn sẽ thực hiện cuộc cách mạng đó. Nhưng đấy là phương thức cuộc cách mạng đã nổ ra. Cuộc cách mạng vĩ đại nhất trong lịch sử đã khởi sự trong một chuồng chiên. Và Lễ Giáng Sinh đang nói tới cuộc cách mạng vĩ đại nhất trong mọi thời đại — Đức Chúa Jêsus Christ.
Bài ca của Mary
Câu chuyện của chúng ta sáng nay không thực sự nói tới thành Bêtlêhem. Nó kết thúc tại đó, nhưng nó khởi sự khoảng 9 tháng trước kìa, khi Mary nhìn biết rằng mình đã có thai. Mục tiêu của chúng ta nhắm vào Mary, bản thân nàng, trong những ngày đầu sớm sủa đó khi nàng nhìn biết rằng mình đã được Đức Chúa Trời chọn để cho ra đời Đấng Mêsi.
Chúng ta nắm lấy câu chuyện ở Luca 1 khi nàng đến thăm Êlisabết, bản thân bà đang mang thai Giăng Báptít. Khi Êlisabết nhìn thấy Mary, bà đã chào nàng với những lời lẽ nổi tiếng ấy: “Ngươi có phước trong đám đàn bà, thai trong lòng ngươi cũng được phước!” (Luca 1:42). Khi Mary nghe thấy lời lẽ quả quyết đó, nàng đã thốt ra thành bài ca. Lời lẽ trong bài ca của nàng đã được ghi lại ở Luca 1:46-55.
Bản thân bài ca theo truyền khẩu được gọi là “Bài Ca Ngợi”, từ chữ đầu tiên của bản Latinh. Như vậy, bài ca ấy giữ một vị trí quan trọng trong lịch sử Hội thánh. Trong 2.000 năm, bài ca nầy đã được nhiều Cơ đốc nhân hát lên trên khắp thế giới. Không may thay, chúng ta đang ở trong thế giới truyền giáo lại chẳng biết nhiều về bài ca đó, nhưng ở những nhánh khác trong phong trào Cơ đốc, Bài Ca Ngợi là một phần quan trọng trong sự thờ phượng Cơ đốc. Ở một số nơi, họ hát bài ca nầy trong từng ngày Chúa nhựt.
Mary có thực sự thốt ra mấy lời nầy không?
Trước khi chúng ta nhìn vào chi tiết của bài ca, một sự quan sát rất có ích lợi: Bài ca của Mary bắt nguồn từ trong kinh Cựu Ước. Khi bạn đọc nó, âm vang của nó giống như một trong những Thi Thiên của David vậy. Khi Mary nói: “Và Ngài thương xót kẻ kính sợ Ngài từ đời nầy sang đời kia”, âm vang ấy nghe giống như Thi Thiên 103. Cũng có giống nhiều với bài ca của Anne ở I Samuên 2 — một sự thực không làm cho chúng ta phải ngạc nhiên khi bài ca của Anne bậc ra bởi Samuên con bà vừa ra đời.
Như một chú thích bên lề, tôi muốn nhắc nhớ rằng một số học giả thuộc phái phê bình đã thắc mắc một người ở tuổi thiếu niên — đặc biệt một thiếu nữ thôn dã như Mary — có thể thực sự sáng tác một Bài Ca Ngợi tráng lệ như thế. Không có bằng chứng nào về địa vị của họ, họ cho rằng Hội thánh đầu tiên đã sáng tác mấy lời nầy rồi đưa chúng vào văn mạch của Luca. Một lời đề xuất như thế mang lấy sự phản bác cho chính nó. Tại sao lại suy nghĩ bất thường như thế, một thiếu nữ sáng láng, thông minh, là người đã được nuôi dạy trong một gia đình tin kính (và người đã học biết Kinh Thánh ngay từ những ngày còn thơ ấu), há chẳng sáng tác được một bài hát như vầy? Người nào nghi rằng Mary thực sự nói ra mấy lời nầy cho thấy họ tỏ ra bản thân họ nhiều hơn là họ nói đến Mary.
Vì thế, khi bạn đọc Bài Ca Ngợi nầy, bạn đang đọc lời lẽ của Tân Ước qua ánh mắt của một thiếu nữ được Đức Chúa Trời lựa chọn để đưa Đấng Mêsi vào trong thế gian.
Đừng đọc điều nầy ở chỗ đông người
Một điểm khác nữa đáng được nhắc tới. Bên cạnh bài hát mừng đầu tiên của dịp Lễ Giáng Sinh, bên cạnh chính lời lẽ của Mary, bên cạnh sự dầm thấm của Cựu Ước, bài Ca Ngợi là một trong những tư liệu có tính cách mạng nhất từng được viết ra. Mục sư E. Stanley Jones, học giả lỗi lạc của hệ phái Giám Lý, nhà văn và là nhà truyền đạo, đã nói rằng Bài Ca Ngợi là “tài liệu có tính cách mạng nhất trong lịch sử thế giới”. Đấy là một câu nói phải thốt ra, có phải không? Nhưng hãy xét điều nầy xem. Nhiều năm tháng trôi qua trước khi Mục sư Jones đưa ra câu nói ấy, William Temple, Giám Mục của xứ Canterbury, đã dạy cho các giáo sĩ của ông đến Ấn độ đừng bao giờ đọc Bài Ca Ngợi ở chỗ đông người khi có nhiều người chưa tin Chúa hiện diện. Tại sao vậy? Vì trong một quốc gia như Ấn độ với mọi vẻ nghèo khó của nó, phân đoạn Kinh Thánh nầy, nếu rút ra khỏi phân đoạn Kinh Thánh, sẽ chẳng gây ra điều chi khác hơn là rối rắm.
Tìm hiểu cấu trúc
Bước thứ nhứt của chúng ta khi tìm hiểu bài ca nầy là nắm lấy những phần khác nhau của nó. Giống như bao bài ca khác, Bài Ca Ngợi có thể được chia ra làm nhiều khổ. Khi bạn quan sát bài ca cho thật kỹ, bạn có thể nhìn thấy, về cơ bản nó có hai khổ — Khổ 1 gồm các câu 46-50 và khổ 2 gồm các câu từ 51-55. Chúng ta có thể chia nó ra bằng cách lưu ý rằng trong khổ 1, Mary đang suy gẫm điều nàng được chọn để mang thai Đấng Mêsi có nghĩa gì!?! Nàng đang ca ngợi Đức Chúa Trời vì lòng thương xót lớn lao Ngài dành cho cá nhân nàng. Lời lẽ của nàng rất tư riêng và quan điểm của nàng thì hướng nội. Trong khổ 2, dường như Mary mờ dần đối với bối cảnh; nàng đang ca ngợi Đức Chúa Trời vì những tác dụng sự đến của Đấng Christ sẽ có trên thế gian. Quan điểm của nàng là hướng ngoại, lời lẽ của nàng trải khắp toàn cầu trong phạm vi của chúng. Sau cùng, chúng ta có thể quan sát hai khổ ấy bằng cách lưu ý rằng mỗi một khổ đều kết thúc với phần tham khảo đến lòng thương xót của Đức Chúa Trời (các câu 50 & 54).
Nếu Đức Chúa Trời muốn giàu có
Với lai lịch đó, chúng ta hướng vào khổ 1. Ở các câu 46-48, Mary ca ngợi Đức Chúa Trời vì Ngài đã chọn nàng mang thai Đấng Mêsi, bất chấp tình trạng thấp hèn của Ngài. Câu 48 là câu chìa khoá: “Vì Ngài đã đoái đến sự hèn hạ của tôi tớ Ngài”. Từ ngữ “hèn hạ” đề cập tới tuổi tác, lai lịch, tình trạng kinh tế, thiếu địa vị xã hội của nàng. Nói ngắn gọn, Mary đã lấy làm lạ vì Đức Chúa Trời đã chọn nàng trong tất cả mọi người để mang thai Đấng Mêsi. “Sao lại là tôi, ôi Chúa, khi Ngài có thể có được một thiêu nữ giàu có từ thành Jerusalem?” Nàng chỉ là một thiếu nữ Do thái khó nghèo — một người giữa vòng hàng ngàn người. Trong tất cả những người Do thái, không có một người hèn kém như thế. Mary bị phủ lút bởi tư tưởng cho rằng nàng đã được Đức Chúa Trời lựa chọn.
— Nếu Đức Chúa Trời muốn sự giàu có cho Con của Ngài, Ngài có thể sắp đặt việc đó.
— Nếu Đức Chúa Trời muốn quyền lực cho Con của Ngài, điều đó có thể được làm ra.
— Nếu Đức Chúa Trời muốn Chúa Jêsus chào đời trong chỗ xa hoa, Ngài chỉ cần phán một lời mà thôi.
— Nếu Đức Chúa Trời muốn Chúa Jêsus ra đời ở giai cấp thượng lưu, Ngài có hàng trăm gia đình để mà lựa chọn.
— Nếu Đức Chúa Trời muốn học vấn, hay trường đại học nổi tiếng, hoặc những nối kết xã hội thích ứng, hay bất kỳ một việc nào khác mà người ta thường gắn với sự thành công, điều đó sẽ được thực hiện ngay.
Đức Chúa Trời không phải làm theo cách ấy! Đấy là điều kỳ diệu trong Lễ Giáng Sinh.
Đây là một phát biểu về ân điển tối hậu của Đức Chúa Trời. Mary thực sự đang nói: “Lạy Chúa, chẳng có một cớ gì để Ngài chọn tôi”. Đây là một sự lựa chọn được lập ra trong ân điển thanh sạch. Chẳng có một điều gì về Mary hầu tiến cử nàng cho Đức Chúa Trời. Phải, rõ ràng là nàng đã sống tin kính lắm, nhưng có biết bao nhiêu thiếu nữ khác trong độ tuổi của nàng. Mary đang nói: “Tôi biết Ngài chọn tôi vì cớ lòng thương xót của Ngài. Ngài không chọn tôi vì học vấn của tôi, hay lai lịch của tôi, hoặc vì cớ bố mẹ tôi, hay vì cớ địa vị cao trọng của tôi trong xã hội”. Mary đang khen ngợi Đức Chúa Trời vì Ngài đã chọn nàng bất chấp mọi sự mà thế gian đã không thèm nhìn đến nàng.
Ngài đã chọn một thiếu nữ nông thôn nghèo khó khi Ngài có thể có bất kỳ thiếu nữ nào Ngài muốn để trở thành mẹ của Đấng Mêsi. Đấy là những gì Mary không thể xem thường được. Nếu bóc thăm và lá thăm rơi trúng nàng, nàng sẽ rất biết ơn song vinh quang sẽ không tới được như thế. Nhưng sự việc không xảy ra do cơ hội hay hoàn cảnh. Mary không phải là sự lựa chọn cuối cùng sau khi mọi người khác nói “không”. Mary là sự lựa chọn tiên khởi của Đức Chúa Trời. Không, mạnh hơn thế nữa. Mary là sự lựa chọn duy nhứt của Đức Chúa Trời.
Và Đức Chúa Trời đã chọn một thiếu nữ dường không thích nghi lắm cho đặc ân cao trọng nhất mà bất cứ người nữ nào từng nhìn biết, có phải không? Không có gì phải ngạc nhiên, khi Mary nói: “Nầy, từ rày về sau, muôn đời sẽ khen tôi là kẻ có phước”. Nàng không biết câu nói ấy hư thực thể nào!?! Sau 2.000 năm, chúng ta vẫn còn nói tới Mary. Ngoài Êlisabết, bạn có thể kể tên một người mẹ khác từng sống trong xứ Israel vào thời của Mary không? Hết thảy mọi người khác đều bị quên lãng đi, nhưng Mary thì được ghi nhớ cho đến đời đời.
Đấy là khổ thứ nhứt của Bài Ca Ngợi.
Ngài lật đổ cả thế gian
Trong khổ thứ hai, tiêu điểm nâng từ Mary sang thế giới ở chung quanh nàng. Khi Đức Chúa Trời đã làm những việc lớn bằng cách chọn một người dường không thích hợp như thế, giờ đây Ngài sẽ làm những việc lớn với những phương thức không thích ứng. Khi bạn đọc các câu 51-55, không những bạn nhìn thấy một sự thay đổi về mục tiêu, mà bạn còn nhìn thấy một sự thay đổi theo các thì động từ nữa kìa. Khi Mary nói về bản thân mình, nàng sử dụng thì hiện tại; song khi nàng nói về thế gian, nàng sử dụng thì quá khứ — "Ngài đã dùng, Ngài đã phá tan, Ngài đã cách, Ngài đã làm đầy”.
Ở đây còn điều gì nữa không? Khi nàng nói: “Ngài”, Mary đang nói tới Đức Chúa Jêsus Christ. Khi nàng nói “đã”, nàng đang nói tới những điều Đấng Christ sẽ làm. Nhưng ở tại điểm nầy, Chúa Jêsus vẫn còn đang lớn lên ở trong cơ thể nàng. Làm sao nàng nói theo thì quá khứ những gì Đấng Christ sẽ làm trong tương lai? Câu trả lời, ấy là Mary đang sử dụng cái điều mà những nhà mô phạm gọi là “tiên tri bất định” (prophetic aorist). Đôi khi những vị tiên tri nhìn vào tương lai và dám chắc về những điều họ trông thấy đến nỗi họ sử dụng thì quá khứ để mô tả những gì đối với họ là một sự kiện chắc chắn tuyệt đối trong tương lai. Nàng đã tin quyết hoàn toàn về những gì Con của nàng, Chúa Jêsus, sẽ làm khi Ngài ngự đến, nàng nói về sự ấy giống như thể sự ấy đã xảy ra rồi vậy. Đồng thời, sự ấy hãy còn ở thì tương lai; trong lý trí của Mary, đây là một sự thực đã hoàn tất vì Đức Chúa Trời bằng lòng để cho việc ấy xảy ra.
Ở các câu 51-53, Mary mô tả những thay đổi mang tính cách mạng sẽ xảy ra trên đất vì cớ sự ra đời của Đức Chúa Jêsus Christ:
1. Sự ra đời của Ngài sẽ mang lại một cuộc cách mạng về đạo đức.
“Ngài đã dùng cánh tay mình để tỏ ra quyền phép; Và phá tan mưu của kẻ kiêu ngạo toan trong lòng” (câu 51). Sự đến của Đấng Christ có nghĩa là sự cuối cùng của mọi khoe khoang loài người. Đây là điểm chấm hết cho lòng tự cao tự đại và tham vọng thái quá. Sự đến của Ngài có nghĩa là một dấu chấm hết cho sự tham lam không đáy và tư dục không kềm chế được về quyền lực. Kẻ mạnh bị hạ xuống bởi cánh tay mạnh sức của Chúa.
Cho nên, điều nầy đã xảy ra trải bao thế kỷ. Hạng người kiêu ngạo và cả gan đã ngước cái đầu của họ lên thách thức Đấng Toàn Năng, nhưng Ngài đã đập nát họ giống như loài ruồi vậy. Điều gì đã xảy ra cho Saddam Hussein? Điều gì đã xảy ra cho Erich Honecker? Điều gì đã xảy ra cho Idi Amin? Điều gì đã xảy ra cho Vladimir Lenin? Khi nào là lần cuối cùng bạn suy nghĩ tới Juan Peron? Hay Pinochet? Hoặc Mao Trạch Đông? Họ đã đến, họ dấy lên quyền lực, và chẳng chóng thì chầy, họ biến mất đi.
Theo lời lẽ của Mục sư Martin Luther King, Jr.: “Cánh tay của vũ trụ dài lắm, song nó quay hướng về sự công bình”.
Sự đến của Đức Chúa Jêsus Christ có nghĩa là Đức Chúa Trời đã đề ra một cuộc cách mạng về đạo đức được thực thi trong thế gian, một cuộc cách mạng trong đó những kẻ phạm tội chắc chắn phải được đưa ra xét xử. Hãy viết ra câu nầy “Tháp Ba bên”. Câu chuyện ấy cho chúng ta biết rõ Đức Chúa Trời hành động như thế nào. Ngài để cho kẻ kiêu ngạo tập trung lại với nhau rồi trong mọi kế sách vĩ đại của họ, họ tính lên cao đến tận trời. Đức Chúa Trời nhìn xem trong một lúc, Ngài chờ đợi, dường như Ngài thậm chí chẳng biết đến nữa, và trong sự thành công nhất thời của họ, họ chúc tụng nhau về sự tài giỏi của họ. Nhưng Đức Chúa Trời phá tan kẻ kiêu ngạo, và Ngài phá tan cách thình lình.
Đâu là Donald Trump? Đâu là Ivan Boesky? Đâu là Robert Maxwell? Một người bị khánh kiệt, người kia là tội phạm bị kết án, còn kẻ nọ đã gục chết.
Hạng người kiêu ngạo mong đem mọi sự theo với họ. Nhưng Đức Chúa Trời cắt ngang họ. Ngài bẻ cây cung của họ. Ngài thổi tung mọi dự án của họ. Ngài hạ họ xuống thấp. Và Ngài làm thế bởi chính mưu luận mà với đó họ tưởng làm cho mình thăng hoa.
2. Sự ra đời của Ngài sẽ mang lại một cuộc cách mạng về xã hội.
“Ngài đã cách người có quyền khỏi ngôi họ, và nhắc kẻ khiêm nhượng lên” (câu 52). Có một số người trong các bạn đã xem bộ phim chiếu năm ngoái có đề tựa là “Đổi số phận”. Đấy là những gì Mary đang nói tới ở đây: Sự đến của Đấng Christ đem lại một sự thay đổi số phận trong xã hội. Kẻ kiêu ngạo bị hạ thấp xuống, còn người khiêm nhường được nâng cao lên.
Những gì con người gọi là may mắn, Mary gọi đó là công việc của Đức Chúa Trời. Khi người ta mất hết mọi sự, chúng ta nói tới may rủi. Khi có ai đó trúng số, chúng ta nói người ấy may mắn. Còn Mary không nói như vậy đâu. Nàng hiểu rõ ở đàng sau lẽ mầu nhiệm vô diện kia gọi là may mắn, có Đức Chúa Trời đang ngự trị ở đó. Ngài nhấc lên, và chẳng có ai hạ xuống được. Ngài hạ xuống, thì không có người nào nhấc lên trở lại được.
Như John Calvin nói, bậc vua chúa của thế gian không hiểu được điều nầy. Họ càng láo xược, phì nộn ra, làm biếng và tham lam. Họ hưởng thụ trong xa hoa, nếm sự kiêu ngạo rồi càng say sưa với quyền lực. Không bao lâu sau đó, họ quên rằng mọi sự họ có đều đến từ Đức Chúa Trời. Và để trưng dẫn Calvin cho thật chính xác: “Nếu Chúa không thể dung chịu thái độ vô ơn bạc nghĩa như thế, chúng ta không nên lấy làm ngạc nhiên”.
Nhưng hãy đi một bước xa hơn. Chẳng một ai sống cho đến đời đời được — dù công bình hay không công bình cũng không. Sam Walton một ngày kia sẽ chết, cùng với George Bush, Madonna và Billy Graham. Không một vì vua nào cai trị cho đến đời đời được. Hãy hỏi Elvis xem. Nếu chúng ta sống cho đến đời đời, không lâu sau đó hết thảy chúng ta sẽ quên phứt Đức Chúa Trời. Song Kinh Thánh chép: “Theo như đã định cho loài người phải chết một lần, rồi chịu phán xét” (Hêbơrơ 9:27).
Thế nhưng bởi sự cất nhắc kẻ thấp hèn lên nắm quyền lực, Đức Chúa Trời thắng hơn thế gian. Ông Gorbachev ơi, làm ơn nói hello với Boris Yeltsin đi. Hãy biết điều đối với ông ta. Ông ấy là chủ nhân mới của các bạn. Đấy là cách Đức Chúa Trời hành động.
Phải biết chắc bạn đã tiếp thu lấy bài học: Những thăng trầm của lịch sử thực sự là bàn tay năng động của Đức Chúa Trời. Một người cai trị, rồi tới người khác, rồi người khác nữa thay thế người. Và đàng sau luồng lịch sử dường như không ngôi kia chính là bàn tay rất năng động của Đức Chúa Trời — thình lình đánh hạ kẻ kiêu ngạo xuống (hay một nước) rồi thế người với người khác. Những khoảnh khắc ấy dường như lật đổ mọi thứ trong xã hội được Đức Chúa Trời chỉnh đốn với sự công bình luôn luôn chính xác.
1. Kẻ mạnh nghĩ họ luôn được an toàn.
2. Người nghèo khó thất vọng về số phận của họ.
3. Đức Chúa Trời ưa thích làm đảo lộn số phận của họ.
Phù thủy Johnson thổ lộ
Bạn có xem cuộc phỏng vấn mà phù thủy Johnson đã có với Connie Chung đêm kia không? Bấy giờ anh ta hát với một âm điệu khác. Bạn nhớ đi, khi anh ta bị chẫn đoán lần đầu tiên bị nhiễm virus AIDS, anh ta nói sẽ làm phát ngôn viên cho an toàn tình dục. Rồi anh ta đến Sảnh đường Arsenio trình diễn, làm nhiều trò cười, và nhận lấy sự cười đùa của đám đông. Cơ bản là anh ta đã nói rằng bao lâu bạn sử dụng bao cao su, bạn sẽ được an toàn. Khi ấy tôi nói cho bạn biết tôi nghĩ đấy là một lời bình rất là phi đạo đức — và tôi chờ sự phán xét đó.
Nhưng bây giờ sự thực đã bắt đầu luồn vào. Anh ta nói giờ đây anh ta biết những gì anh ta đã làm là sai lầm. Thậm chí anh ta nói rằng anh ta biết đấy là sai trái ở trước mắt của Đức Chúa Trời.
Magic Johnson chắc chắn xứng đáng là một người đã ở trên đỉnh của thế gian cách đây một tháng. Anh ta sẽ trở thành một trong những “người có quyền” mà Mary đã nói tới. Là người đã từng thưởng thức anh ta chơi bóng rỗ trải qua nhiều năm tháng, tôi thấy chẳng vui khi nói rằng Đức Chúa Trời đã đánh hạ anh ta xuống khỏi ngôi của mình. Một cách thình lình — thật là nhanh — sự nghiệp của anh ta qua đi và sinh mạng anh ta bị đe doạ. Giờ đây, anh ta đang hát lên một âm điệu nghe thật là lạ. Giờ đây, thực tế đã nhập cuộc. Bây giờ, lúc sau cùng — và với cái giá thật kinh khủng — Magic Johnson đang học biết con đường khôn ngoan.
Trong cuộc phỏng vấn, anh ta nói: “Tôi đã lầm. Tôi đã sống cuộc sống của một gã độc thân và ngủ với nhiều phụ nữ. Bây giờ tôi biết điều đó là sai”. Thậm chí anh ta còn nói: “Trong ánh mắt của Đức Chúa Trời, tôi biết điều đó là sai lầm. Bây giờ tôi biết cử kiêng là con đường duy nhứt phải đi”.
Đức Chúa Trời không kéo kẻ mạnh ra khỏi ngôi của họ chỉ để sửa phạt họ. Ngài cũng làm thế để dạy cho họ biết sự thực mà họ chẳng thể tiếp thu được ở đâu khác. Tôi muốn nói thêm rằng mọi tư tưởng và mọi lời cầu nguyện của chúng ta cùng với phù thủy Johnson — không những xin cho anh ta được phục hồi — mà còn cầu xin rằng anh ta sẽ tiếp tục tấn tới trong sự thông biết lẽ thật và anh ta sẽ sử dụng kinh nghiệm lớn lao của mình để kêu gọi lớp người trẻ của nước Mỹ trở lại với sự cử kiêng, sự trong trắng, thanh sạch, và hoàn toàn quay trở lại với Đức Chúa Trời.
3. Sự ra đời của Đấng Christ mang lại một cuộc cách mạng về kinh tế.
“Ngài đã làm cho kẻ đói được đầy thức ngon, và đuổi kẻ giàu về tay không” (câu 53). Đây là phần có tính cách mạng nhứt trong bài ca của Mary. Không những sự đến của Đấng Christ làm chao đảo kẻ kiêu ngạo trong thế gian nầy, không những sự ra đời ấy nhấc kẻ khiêm nhường lên cao, mà sự ra đời ấy còn có ý nghĩa kẻ đói được no đầy và kẻ giàu ra đi với hai bàn tay không.
Bạn có biết điều nầy có nghĩa gì không? Nó có ý nói rằng trong Đức Chúa Jêsus Christ chẳng có một việc gì là “một người nam bình dân” hay một “người nữ bình dân” cả. Đôi khi chúng ta sử dụng loại thuật ngữ ấy đề cập tới những người nam người nữ lao động với sự chế giễu, đến hạng người làm việc cực nhọc lo lái những chiếc xe tải và bốc vác. Chúng ta đối chiếu “người bình dân” với “giai cấp thượng lưu” và hết thảy chúng ta thích mình là một thứ gì đó trổi hơn là một “người lao động” (dù nam hay nữ). Rốt lại, đấy là một phần trong bản chất của con người, họ nhìn người khác kém cõi hơn qua sóng mũi của họ.
Nhưng trong Đức Chúa Jêsus Christ, không có một việc gì là một người bình dân cả. Đức Chúa Trời không biết bất kỳ một người nam hay nữ “bình dân” nào hết. Làm sao bạn dám gọi bất kỳ ai là bình dân một khi Đấng Christ đã chịu chết cho họ!?!
Kẻ nghèo thường là người đầu tiên chịu tin theo
Cho phép tôi giải thích ý nghĩa thực tiễn của cuộc cách mạng về đạo đức, về xã hội và về kinh tế nầy mà sự đến của Đấng Christ đã mang lại. Xuyên suốt lịch sử, bất cứ khi nào Tin Lành bước vào trong một xã hội, Tin Lành ấy thường xâm nhập vào trình độ kinh tế xã hội ở dạng thấp. Đúng là một việc hiếm cho người giàu có trở thành người đầu tiên vòng tay ôm lấy Tin Lành. Những người nghèo khó thường dựng lên Hội thánh đầu tiên trong bất cứ xã hội nào. Tại sao chứ? Vì người nghèo chẳng có gì để trông cậy vào đó, vì vậy khi họ nghe Tin Lành họ vòng tay ôm lấy nó như là những tin tức thực sự tốt lành. Còn người giàu, họ không nhìn thấy nhu cần của họ trong Đấng Christ, vì vậy họ bất chấp Tin Lành.
Kẻ giàu nào lắng nghe Tin Lành thường là như vậy hết. Còn kẻ nghèo, kẻ thấp hèn, kẻ goá bụa, kẻ bị quên lãng và kẻ bị bức hiếp, trước tiên họ bằng lòng nghe theo Tin Lành. Bạn có nhớ Giăng Báptít đã làm gì khi ông bị bỏ tù không? Ông đã nghe nói về Chúa Jêsus cùng các phép lạ của Ngài rồi lấy làm lạ không biết Đấng Christ có thực sự là Đấng được hứa cho hay không nữa!?! Vì vậy, ông đã sai các môn đồ mình đến với Đấng Christ trình một thắc mắc đơn sơ như vầy: “Có phải Ngài là Đấng phải đến hay chúng tôi còn phải chờ Đấng khác?” Đấng Christ đã trả lời với mấy lời nầy: “Hãy đi và thuật lại cho Giăng nghe những điều các ngươi trông thấy. Kẻ đau được lành, kẻ điếc được nghe, kẻ mù được sáng, kẻ chết được sống lại, và kẻ nghèo được nghe giảng Tin Lành”. Ở cái nhìn đầu tiên, cụm từ sau cùng dường như không nằm ở chỗ đó. Nhưng đối với Chúa Jêsus thì không phải như thế đâu. Có nhiều phép lạ cung ứng, minh chứng địa vị Đấng Mêsi của Ngài — giữa vòng chúng là phép lạ kẻ nghèo đang lắng nghe và đáp ứng lại với sứ điệp Tin Lành.
Đấy là đặc tính của đức tin Cơ đốc — nghĩa là Tin Lành trước tiên đến với kẻ nghèo trong thế gian. Trước tiên đến với kẻ có lòng khao khát, trước tiên đến với kẻ có lòng đau thương, trước tiên đến với kẻ đang có cần, trước tiên đến với kẻ vô gia cư, trước tiên đến với những giai cấp bị lãng quên trong nhân loại.
Tin Lành làm cho người ta được tốt hơn
Đây là một sự thực mà có thể bạn chưa biết. Bất cứ đâu Tin Lành xâm nhập vào một xã hội và tạo ra cái chạm trên một nhóm người nào đó, nó luôn luôn có tác dụng nhấc cao số người ấy lên về mặt kinh tế. Bất cứ khi nào Tin Lành đến với kẻ nghèo, nó dấy những kẻ ấy lên trong xã hội. Điều đó đã xảy ra ở Anh quốc. Điều đó đã xảy ra ở Brazil. Điều đó đang xảy ra ở châu Phi và châu Mỹ Latinh. Điều đó đang xảy ra ở Ấn độ và Indonesia. Điều đó đang xảy ra ngay bây giờ trên khắp thế giới. Lớp người trẻ cùng du hành với tôi và Bob cách đây hai năm đã nhìn thấy điều đó đang xảy ra ở Haiti.
Điều đó xảy ra bằng cách nào? Đây là một người chồng, là kẻ phạm tội tà dâm, đang ngủ đâu đó với người đàn bà mà ông ta có thể tìm gặp. Khi ông ta đến với Đấng Christ, toàn bộ đời sống của ông ta được điều chỉnh lại. Đây là người đàn bà đã lạm dụng rượu trong 35 năm trời. Khi bà ta đến với Đấng Christ, toàn bộ đời sống của bà ta được thay đổi và bà ta học biết sống nghiêm trang và giữ lấy sự nghiêm trang đó. Đây là một người chẳng nổ lực làm việc trong nhiều năm trời. Ông đã sống không có phúc lợi và nhờ vào của bố thí của bạn bè trong một thời gian rất lâu. Nhưng khi ông đến với Đấng Christ, ông có được một mục đích mới mẻ trong cuộc sống. Và mục đích mới mẻ ấy cung ứng cho ông một sự khao khát mới. Và ngoài khao khát mới mẻ đó, ông ta còn có một việc làm đúng đắn nữa. Và ông ta giữ lấy việc làm ấy. Và trong quá trình đó, ông ta trở thành một công dân rất tốt.
Vì vậy, chính Tin Lành đó làm cho người ta được khá hơn và người được khá hơn đó làm cho thế giới được khá hơn. Tin Lành không những tác động một sự biến đổi từ bên trong; nó còn tác động một sự biến đổi ở bên ngoài, đúng ra nó làm thay đổi tư duy suy tưởng, nói năng và hành động của con người. Và trong quá trình đó, nó tạo ra những đức tính xu hướng vào sự tiến triển về mặt kinh tế.
Nước Mỹ mắc nợ Tin Lành
Cho phép tôi nói điều nầy cách đơn giản. Có một hàm ý về kinh tế trong Tin Lành. Khi các nguyên tắc Tin Lành được người ta làm theo, kẻ khao khát được no đầy và kẻ giàu bị đổi thành đói khát. Nan đề của chúng ta ở đây tại Hội thánh Oak Park, ấy là chúng ta có nhiều tiền bạc, nhiều sự giàu có và nhiều của cải đời nầy đến nỗi chúng ta đã quên mất lý do tại sao Chúa Jêsus đã đến trong chỗ thứ nhứt.
Bạn có hiểu không, phần lớn những gì chúng ta có ở nước Mỹ ngày nay đã đạt được từ di sản Cơ đốc của chúng ta? Điều nầy có được từ các tín đồ Thanh giáo và những hệ phái khác, họ đã dạy dỗ các nguyên tắc Tin Lành về sự chịu khó làm việc, sự tiết kiệm, dàm dụm và đầu tư. Đây là phần thặng dư của một hệ thống giáo dục dạy dỗ con cái đọc sách bằng cách sử dụng những truyện tích từ Kinh Thánh — chớ không phải loại truyện kinh dị tưởng tượng ra đâu. Đây là kết quả của nhiều thế hệ tín đồ đã sáng lập những bịnh viện, dưỡng đường, thư viện, các trường trung và đại học. Trong phần lớn, những sự tự do chúng ta vui hưởng và chỗ đứng kinh tế thuộc về chúng ta đều đã đạt được vì cớ Tin Lành của Đức Chúa Jêsus Christ. Chủ nghĩa vô thần, thuyết bất khả tri, chủ nghĩa nhân văn không thể tạo ra được những gì chúng ta đang có hôm nay. Nếu bạn muốn nhìn thấy những điều họ tạo ra, chỉ hãy nhìn vào Liên Bang Sô Viết đã sụp đổ kia.
Tin Lành là niềm hy vọng duy nhứt dành cho nhân loại — không những cho linh hồn con người, mà còn cho thân thể của con người nữa, không những cho Hội thánh mà còn cho thế gian nữa, không những cho cá nhân mà còn cho xã hội nữa. Khi Tin Lành lên đường tiến thẳng vào xã hội, ở đó bạn sẽ tìm thấy sự bình an, hài hoà, bình thản và sự thịnh vượng (một cách trọn vẹn).
Chúa Jêsus ra đời ở Austin, chớ không ở Oak Park
Chiếu theo ánh sáng đó, những gì Mary đang thốt ra hoàn toàn thực sự có tính cách mạng. Chúng ta có khuynh hướng tư hữu hoá Tin Lành nhiều đến nỗi chúng ta không nhìn thấy sự thực nầy. Chúng ta nói về việc “cầu xin Chúa Jêsus ngự vào lòng” nhưng chúng ta không hề nói tới việc “cầu xin Chúa Jêsus bước vào phòng họp của bạn”. Chúng ta muốn có Chúa Jêsus và sử dụng những gì chúng ta mong muốn, mặc lấy thứ gì chúng ta muốn, làm những gì chúng ta muốn. Và thay vì thế chúng ta chẳng thấy lo lắng chi về kẻ nghèo hết.
Nhưng nếu Kinh Thánh dạy dỗ điều chi — và nếu truyện tích Giáng Sinh có ý nghĩa gì đó — thì chính là việc Đức Chúa Trời đang ở bên cạnh kẻ nghèo. Ngài không phải là Đức Chúa Trời của người giàu có; Ngài là Đức Chúa Trời của kẻ nghèo khó. Ngài ở bên cạnh họ vì chẳng có ai ở đó hết. Ngài vực dậy chủ trương của họ vì chẳng có ai muốn thế. Ngài dự những trận đánh của họ vì chẳng có ai chiến đấu cho họ hết. Đặc biệt Ngài chú trọng đến họ vì phần còn lại của thế giới chẳng thèm ngó ngàng chi đến họ.
Cũng thực như thế đối với kẻ đói khát, kẻ có lòng đau thương, kẻ vô gia cư, kẻ ngã lòng, kẻ bị ức hiếp, kẻ bị tật nguyền, và kẻ cô độc. Đức Chúa Trời cũng đang ở bên cạnh họ, vì nếu Ngài không lo liệu cho họ, thì ai sẽ lo đây?
Tấm lòng của Mary đầy dẫy với sự ngợi khen, vì nàng biết thế gian sẽ là một nơi rất khác biệt khi Đấng Christ ngự đến. Ngài sẽ đánh hạ kẻ kiêu ngạo. Ngài sẽ nhấc kẻ khiêm nhường lên. Ngài sẽ làm cho kẻ đói được no đầy. Và người giàu sẽ ra về tay không. Đây là sự đảo lộn hoàn toàn của số phận.
Ngài nhớ lại lòng thương xót mình
Các câu 54-55 đưa chúng ta đến với cứu cánh bài ca của Mary. Nàng kết luận bằng cách ngợi khen Đức Chúa Trời khi sai phái Đức Chúa Jêsus Christ đến với thế gian, Đức Chúa Trời đang giữ mọi lời hứa của Ngài từ ngàn xưa với Ápraham. Có một cụm từ thật tuyệt vời ở câu 54: “Ngài đã vùa giúp Y-sơ-ra-ên, tôi tớ Ngài, và nhớ lại sự thương xót mình”. Đấy là một đường lối thật kỳ diệu. Đức Chúa Trời nhớ lại lòng thương xót mình. Há bạn chẳng vui sướng sao khi tại lễ Giáng Sinh Đức Chúa Trời đã nhớ sai phái Con Ngài đến? Chúng ta sẽ làm gì một khi Đức Chúa Trời quên đi? Chúng ta sẽ ở đâu nếu Chúa Jêsus không ngự đến?
Thế rồi Mary nhắc tới Ápraham, và điều nầy đưa chúng ta trở lại 2.000 năm trước Đấng Christ. Giữa Ápraham và Mary, có một việc như thế nầy đây: 70 thế hệ đã đến rồi đi. Hết thảy họ đều đã sống trong viễn cảnh về lời hứa của sự Chúa Giáng Sinh. Đấy là những gì họ đang trông mong, mặc dù họ chưa hề nghe đến cụm từ ấy. Giờ đây, sau ngần ấy năm tháng, Mary đang nhìn thấy sự ứng nghiệm của những gì tổ phụ nàng chỉ có mơ đến mà thôi. Tấm lòng nàng đầy dẫy đến nỗi nàng không thể chất chứa trong lòng: “Lạy Chúa, Ngài đã làm điều đó. Ngài đã giữ lời hứa của Ngài. Đã 2.000 năm rồi, Ngài vẫn nhớ lại lòng thương xót”.
Sự năng động đáng yêu
Đây là một bài ca rất hay, có phải không? Cái điều đáng thương hại, ấy là chúng ta những nhà truyền đạo đã lướt qua nó mà không xem xét thực sự nó nói cái gì!?! Cho phép tôi chia sẻ mấy lời của William Barclay khi ông tóm tắt ý nghĩa sâu sắc của Bài Ca Ngợi nầy.
Có sự đáng yêu trong Bài Ca Ngợi, nhưng trong sự đáng yêu đó có sự năng động nữa. Cơ đốc giáo sinh ra một cuộc cách mạng trong mỗi con người và cuộc cách mạng trên thế giới nữa.
Đâu là sứ điệp toàn diện trong Bài Ca Ngợi? Nếu bạn ghép hai khổ nầy lại với nhau, thì nó sẽ ra như thế nầy đây: Đức Chúa Trời hành động theo cùng một phương thức suốt mọi thời đại. Khi Mary ngợi khen Đức Chúa Trời vì Ngài đã chọn nàng bất chấp tình trạng thấp hèn của nàng, nàng đang tỏ ra khuôn mẫu mà Đức Chúa Trời luôn noi theo. Ngài tỏ lòng thương xót cho những ai không xứng đáng được thương xót, Ngài chọn kẻ thấp hèn hơn kẻ kiêu ngạo, Ngài tìm kẻ đói khát và làm cho họ được no đầy, và người giàu trong thế gian sẽ ra về tay không. Ngài luôn luôn giữ mọi lời hứa của Ngài cho dù điều ấy có nghĩa là đảo lộn mọi giá trị sai trái trong xã hội con người. Hai khổ nầy thực sự đang nói tới cùng một việc, chỉ từ hai nhận định khác nhau mà thôi. Mary là phần Triển Lãm A phương thức Đức Chúa Trời hành động. Nàng là biểu tượng của những gì khổ thứ hai đang nói tới.
Khi Đức Chúa Trời sai phái Con Ngài, Ngài đứng về phía kẻ bị lãng quên trong thế gian. Ngài vẫn làm y như thế hôm nay. Nếu chúng ta sắp xếp sự ra đời của Chúa Jêsus, chúng ta sẽ không sắp xếp sự ấy theo cách nầy. Chúng ta sẽ trực điện thoại, gọi CNN rồi tổ chức hội nghị báo chí cho thật lớn. Chúng ta nói: “Hãy đến gặp chúng tôi tại số 931 đường Lake vì chúng tôi sẽ tổ chức một biến cố rất lớn sắp sửa diễn ra. Bạn phải đem theo máy thu hình đến đó vì bạn không muốn bỏ sót sự kiện đâu”. Chúng ta đem theo Connie Chung, Dan Rather, Charles Jaco, Wolf Blitzer, Diane Sawyer cùng hết thảy những người còn lại. Thêm nữa, chúng ta sắp xếp một cuộc diễu hành với ban nhạc kèn trống đủ thứ dẫn đầu. Chúng ta gọi Paul Harvey để biết chắc ông ấy đưa tin lên đài phát thanh.
Chúng ta thấy Chúa Jêsus đang đến trên một chiếc xe ngựa. Rốt lại, ít nhứt đấy là những gì bạn trông mong nơi Con của Đức Chúa Trời. Đấy là cách thức Ngài phải ngự đến. Giai cấp thượng đẳng. Mọi sự phải ngừng lại hết. Dàn chào đội mũ đỏ. Không miễn trừ một phí tổn nào hết. Thật nhiều tiền bạc. Thật nhiều phần trình diễn. Thật nhiều vẻ lộng lẫy, huy hoàng.
Đấy chẳng phải là phương thức Đức Chúa Trời hành động.
Khi Đức Chúa Trời muốn sai con Ngài vào trong thế gian, Ngài chọn một thiếu nữ dường chẳng thích hợp mấy Ngài có thể tìm được để làm người mẹ. Ngài chọn một tỉnh bị lãng quên trong Đế quốc Lamã. Ngài sắp đặt để Con Ngài trở thành một chi thể trong dòng giống Do thái bị thù ghét. Khi ấy, Ngài tìm một thị trấn dường chẳng nổi tiếng chi hết rồi sắp đặt cho Con Ngài phải ra đời trong cái chuồng chiên rồi đặt Ngài vào trong cái máng cỏ cho gia súc ăn.
Chúa Jêsus đã ra đời theo phương thức ấy để gửi cho chúng ta một sứ điệp nói tới cách thức Đức Chúa Trời lo liệu công việc Ngài. Bài ca của Mary dạy cho chúng ta biết đây là cách Đức Chúa Trời luôn luôn làm công việc của Ngài. Ngài chẳng làm việc với kẻ kiêu ngạo. Ngài không chạy thi với những vua chúa đời nầy. Ngài không song hành với người giàu. Đức Chúa Trời đã ở tại nhà với kẻ khiêm nhường, kẻ mệt nhọc, kẻ yếu đuối, và kẻ thấp hèn của đời nầy. Ngài lo liệu công việc với những ai biết kính sợ danh Ngài.
Cho phép tôi nói như thế một lần nữa để chúng ta không thể quên được: Sứ điệp của Bài Ca Ngợi, ấy là Đức Chúa Trời luôn luôn ở bên cạnh kẻ thấp hèn. Ngài luôn luôn ở bên cạnh kẻ có lòng đau thương. Ngài luôn luôn ở bên cạnh kẻ tật nguyền, kẻ điếc, kẻ mù, kẻ què, kẻ nhu nhược. Đức Chúa Trời đang ở bên cạnh những ai không thể tự lo cho mình được.
Nếu Lễ Giáng Sinh dạy chúng ta điều chi có giá trị, ấy là Đức Chúa Trời không đến trợ giúp cho kẻ tự lo được cho mình. Ngài để cho họ tự hì hụp lấy. Ngài không đến với hạng người nghĩ mình làm được sự ấy.
Đấy là lý do tại sao nếu Chúa Jêsus ra đời ngày hôm nay, Ngài sẽ không chào đời ở Oak Park. Ngài sẽ chào đời cách đây mấy dặm về phía Đông — ở trong một ngôi nhà tồi tàn nào đó ở Austin.
Và đấy là những gì Mary đang ngợi khen Đức Chúa Trời — vì Ngài làm sự bất ngờ. Và Ngài hành động chống lại những giá trị nhân đạo dõm của đời nầy. Khi Đức Chúa Trời sẵn sàng hành động, Ngài làm cho mọi người phải kinh ngạc.
Nói ngắn gọn, Mary đang ngợi khen Đức Chúa Trời vì khi Chúa Jêsus ngự đến Ngài sẽ khởi động một cuộc cách mạng trong tình yêu thương, sự phục hoà và sự tha thứ chắc chắn sẽ lan đi cho đến đầu cùng đất. Cuộc cách mạng Ngài khởi sự sẽ là lớn lao hơn bất cứ điều chi thế gian đã từng nom thấy.
Và cuộc cách mạng đã khởi sự trong cái chuồng chiên ở tại thành Bếtlêhem — một nơi dường không thích ứng gì cả.
Những gì đã khởi sự cách đây 2.000 năm vẫn còn đang diễn ra hôm nay. Năm 1991 là năm đáng kinh ngạc, có phải không? Chúng ta đã nhìn thấy một số việc gây sốc đang diễn ra quanh chúng ta. Tôi nghĩ ngay cả quan sát viên khó tính nhất cũng sẽ kết luận rằng đây quả thật là những thời kỳ cách mạng.
Nhưng cuộc cách mạng vĩ đại nhất không phải là cuộc cách mạng bạn đã đọc thấy trên đài ABC hay CBS hoặc NBC đâu. Cuộc cách mạng vĩ đại nhất — cuộc cách mạng tạo ra cái chạm lớn lao nhất trong năm 1991 — là cuộc cách mạng đã khởi sự tại thành Bếtlêhem.
Cho phép tôi gói ghém lẽ thật nầy với ba câu nói kết luận như sau:
1. Sự ra đời của Chúa Jêsus đánh dấu phần khởi đầu của cuộc cách mạng vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại.
Những gì Đức Chúa Trời đã khởi sự tại thành Bếtlêhem thật sâu xa hơn cái chạm con người có trong bất kỳ một cuộc cách mạng nào khác trong lịch sử. Sâu xa hơn cuộc cách mạng của người Anh. Sâu xa hơn cuộc cách mạng của người Pháp. Sâu xa hơn cuộc cách mạng của người Mỹ. Vĩ đại hơn Cuộc Cách mạng Nga. Tất cả những phong trào đó đều được con người khởi động vì những lý do hoàn toàn về mặt chính trị. Những gì Đức Chúa Trời đã khởi sự tại thành Bếtlêhem là một cuộc cách mạng về mặt thuộc linh, về đạo đức và về kinh tế, mọi tác động của nó người ta vẫn còn cảm nhận được hôm nay. Không mọi điều gì trong toàn bộ lịch sử có thể đem sánh được với những gì Đức Chúa Trời đã làm khi Ngài sai Con Ngài đến với trần gian.
Bạn có biết Giáng Sinh thực sự là Lễ gì không? Giáng Sinh là ngày kỷ niệm cuộc cách mạng. Bạn có biết bạn đang làm gì khi dựng lại bối cảnh máng cỏ ở trên cái bàn trong phòng khách của bạn không? Bạn đang dựng lên một biểu tượng có tính cách mạng đấy.
Mỗi lần bạn hát lên một bài ca Giáng Sinh, bạn đang hát bài quốc ca cách mạng đó. Mỗi lần bạn gửi đi tấm thiệp Giáng Sinh — nếu thiệp ấy nói tới Chúa Jêsus — bạn đang gửi đi một tài liệu có tính cách mạng đó.
Và đấy là lý do tại sao những người theo chủ nghĩa nhân văn thế tục không muốn Lễ Giáng Sinh trong các trường công. Họ hiểu mọi hàm ý của Lễ Giáng Sinh rõ hơn chúng ta hiểu nữa. Khi bạn kỷ niệm Lễ Giáng Sinh, bạn đang lật đổ các giá trị đời thường của thế gian xuống đất rồi đó — giống như Mary đã nói trong Bài Ca Ngợi.
Và mọi sự kỳ quặc trong đó, ấy là những kẻ thế tục hiểu rõ lẽ thật nầy tốt hơn chúng ta hiểu nữa. Có nhiều người trong chúng ta suy nghĩ về Giáng Sinh giống như bao kỳ lễ tôn giáo khác thôi. Nhưng những người theo chủ nghĩa nhân văn biết rõ rằng Giáng Sinh có nghĩa là Đức Chúa Trời đã đột nhập vào hành tinh nầy! Họ biết như thế, và đấy là lý do tại sao họ muốn từng dấu vết của Lễ Giáng Sinh phải bị cất bỏ ra khỏi hệ thống trường công lập. Với nhiều phương thức, họ nhìn thấy lẽ thật của lễ Giáng Sinh rõ hơn là chúng ta nhìn thấy nữa.
Đối với chúng ta, lễ Giáng Sinh là thời điểm ấm áp trong năm. Nhưng chẳng có một sự ấm áp, vui vẻ nào trong dịp Giáng Sinh đầu tiên, vì chẳng có chút ấm áp vui vẻ nào khi khởi đầu một cuộc cách mạng. Khi ấy chỉ có dao găm, kèn tù và tiếng mời gọi vũ trang.
2. Tin Lành nói tới Đức Chúa Jêsus Christ vì lẽ đó là sứ điệp long trọng và có tính cách mạng nhất mà thế giới đã từng nhìn biết.
Qua Tin Lành của Đức Chúa Jêsus Christ, có một cuộc cách mạng về đạo đức đang tuôn ra trong thế gian. Hạng người bị ruồng bỏ thình lình được hoan nghênh. Nhiều chủng dân không thể thân thiện nổi nay thình lình hoá thân hữu. Kẻ đói được no đầy, kẻ đau được lành, kẻ cô độc được khích lệ, kẻ phung được sạch, và người có lòng đau thương được vùa giúp. Mọi sự ấy và còn nhiều việc nữa đều xảy đến qua Tin Lành của Đức Chúa Jêsus Christ.
Một lần nữa, nan đề của chúng ta, ấy là chúng ta rất thường nghe điều nầy đến nỗi Tin Lành mất hẳn quyền phép cảm động chúng ta. Chúng ta nói “Ờ há” rồi tiếp tục gói quà. Nhưng những kẻ ở ngoài kia — ngoài mấy bức tường thánh nầy — người ta ở ngoài đó, về trực giác họ nhìn biết quyền phép của Tin Lành, cho dù họ không thể nói lưu loát hoàn toàn Tin Lành ấy.
3. Nói như thế có nghĩa là chính mình Đức Chúa Jêsus Christ là Nhà Cách Mạng Vĩ Đại Nhất trong mọi thời đại.
Tất cả những lãnh tụ con người cao trọng kia đều mờ nhạt trước thành tích của Ngài. Hãy kể ra tên tuổi của họ xem — Julius Caesar, Đại đế Alexander, Charlemagne, Napoleon, George Washington, Abraham Lincoln — ai giữa vòng họ có thể sánh được với Đức Chúa Jêsus Christ? Ai trong số họ bạn sẽ nhắc tới tên trong cùng một hơi thở? Hay hãy ghép họ lại với nhau và cái chạm của họ trên thế giới nầy thực kém cõi hơn cái chạm của Con Người xuất thân từ thành Bếtlêhem.
Một đời sống cô độc
Cách đây nhiều năm, có người đã viết một tiểu luận rất nổi tiếng về cái chạm của đời sống Chúa Jêsus. Đại loại là như thế nầy đây:
Đây là một người đã chào đời trong một ngôi làng tăm tối, là con của một phụ nữ nhà quê. Ngài lớn lên trong một ngôi làng khác. Ngài lao động trong một trại mộc cho tới năm 30 tuổi, rồi trong ba năm Ngài là một nhà truyền đạo lưu động. Ngài chưa hề làm chủ một gia đình, Ngài chưa hề viết một quyển sách. Ngài không có một văn phòng nào cả. Ngài chưa hề đi học. Ngài chưa hề đặt chơn vào một thành phố lớn. Ngài chưa hề đi quá 200 dặm kể từ nơi chào đời của mình. Ngài không hề làm một việc gì quá lỗi lạc. Ngài không có một ủy nhiệm thư nào hết trừ ra bản thân Ngài…
Trong khi còn trẻ, làn sóng dư luận chuyển sang nghịch lại Ngài. Bạn hữu Ngài bỏ đi. Một trong số họ đã chối bỏ Ngài. Ngài bị giao nộp cho kẻ thù. Ngài nếm trải sự chế giễu trong một cuộc xét xử. Ngài bị đóng đinh trên một cây thập tự giữa hai tên cướp. Trong khi Ngài còn hấp hối, những kẻ hành quyết Ngài đã bỏ thăm đặng lấy đi tài sản duy nhứt mà Ngài có ở trên đất – chiếc áo choàng. Khi Ngài gục chết, Ngài được đem xuống và được đặt trong một ngôi mộ mượn do lòng thương xót của một người bạn.
Hai mươi thế kỷ đến rồi đi và ngày nay Ngài là trung tâm điểm của dòng giống con người. Tôi dám nói như vầy: tất cả những quân đội từng đi diễu hành, tất cả những lực lượng hải quân từng được thiết dựng; tất cả những quốc hội từng hội họp và tất cả bậc vua chúa từng nắm quyền cai trị, góp hết lại, chưa có tác động vào đời sống của con người trên đất nầy một cách có năng quyền cho bằng một đời sống cô độc nầy. (Evidence That Demands a Verdict, p. 140).
Hãy đến hiệp với nhà cách mạng
Đây là ngày sinh nhựt của Ngài, chúng ta đang kỷ niệm trong kỳ lễ Giáng Sinh — sự ra đời của Chúa Jêsus nhà cách mạng.
Ngài đã đến làm thay đổi thế giới. Khi Ngài đến, thế gian chưa hề được như vậy đâu. Ngài đã khởi động một cuộc cách mạng liên tục qua nhiều thế kỷ cho đến ngày nay. Những môn đồ của Ngài đã tiếp tục cuộc cách mạng nhơn danh Ngài.
Ở ngoài những cánh cửa nầy trong dịp Lễ Giáng Sinh, cuộc chiến đang sôi động. Chúa Jêsus đã khởi sự một cuộc chiến chống Satan và Nước của hắn, một cuộc chiến tiếp tục xung quanh chúng ta ngày và đêm, một cuộc chiến trong đó nhiều người nam và người nữ là chiến lợi phẩm của chiến trận.
Năm nay và từng năm một, Vị Quan Tướng Đạo Binh của chúng ta đang tìm kiếm những người tình nguyện nào sẽ gắn kết với lý tưởng của Ngài, vác lấy ngọn cờ rồi nhơn danh Ngài mà đánh trận. Hôm nay và từng ngày một, lời kêu gọi của Ngài cũng vẫn y nguyên: “Hãy đến, hiệp tác với nhà cách mạng và chúng ta cùng nhau làm thay đổi thế giới”.